Quyên Quyên

Tiểu Thuyết: QUYÊN – Nguyễn Văn Thọ

Tiểu Thuyết: QUYÊN

Tác giả: Nguyễn Văn Thọ

Giới thiệu

Quyên là một cô gái Hà Nội có học thức, có nhan sắc trời cho và phẩm cách cao quý, hội tụ mọi đức tính tốt đẹp của một phụ nữ Hà Thành (công, dung, ngôn, hạnh). Chỉ vì ngộ nhận về một cuộc sống giàu sang hơn nơi xứ người mà cô đã theo chồng rời bỏ Tổ Quốc dấn thân vào một cuộc vượt biên để rồi bị rơi vào một cơn lốc xoáy bi thảm của một kiếp sống lưu vong: bị cưỡng hiếp đến có chửa; bị chồng đánh đập vì có hoang thai; phải tự sát vì không nơi nương thân khi bụng mang dạ chửa; bị bỏ rơi trong lúc sinh nở; phải trốn chạy khỏi bệnh viện vì chấn thương tâm lý; phải đi làm thuê kiếm sống trong khi vừa đẻ; bị đánh ghen và dính vào án mạng vì tình… biết bao nhiêu bến thuyền Quyên đã rơi xuống trong số 12 bến đa đoan trong kiếp sống đàn bà? – nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư

Tiểu thuyết Quyên tựa bức tranh tái hiện khốc liệt về cuộc đời, số phận của những người mưu sinh xa xứ, khiến người đọc không khỏi xót xa, ngẫm ngợi. Quyên cũng là một bộ phim điện ảnh đẹp hiện đã bắt đầu công chiếu tại các rạp trên toàn quốc.

Mục Lục

Phần 1Phần 2Phần 3Phần 4Phần 5Phần 6Phần 7Phần 8

Phần 9Phần 10Phần 11Phần 12Phần 13Phần 14Phần cuối

Phần 1

Hất ngã cô xuống chiếc nệm đặt trên nền lát gỗ, gã tự giật đứt tung cúc áo. Cô gái trẻ thoáng thấy hai vuông thịt nở đầy của người đàn ông, mắt hoảng hốt, tuyệt vọng, vẫn cố lùi. Gã bình thản, câm lặng, chậm rãi cởi thắt lưng, ném quần xuống góc nhà. “Nằm yên!” Đục và khàn, mệnh lệnh cất lên lạnh lùng, chứng tỏ không gì có thể lay chuyển được gã!

Hất ngã cô xuống chiếc nệm đặt trên nền lát gỗ, gã tự giật đứt tung cúc áo. Cô gái trẻ thoáng thấy hai vuông thịt nở đầy của người đàn ông, mắt hoảng hốt, tuyệt vọng, vẫn cố lùi. Gã bình thản, câm lặng, chậm rãi cởi thắt lưng, ném quần xuống góc nhà. “Nằm yên!” Đục và khàn, mệnh lệnh cất lên lạnh lùng, chứng tỏ không gì có thể lay chuyển được gã!

Trần truồng, gã bất động nhìn cô một vài giây như thể suy nghĩ điều gì, rồi đưa hai cánh tay vươn ra, cuồn cuộn những bắp thịt săn, chắc. Hai bàn tay nắm lấy đôi vai mềm của cô gái. Cô gái vùng vẫy, giằng xé, cắn vào bàn tay thô ráp của gã khi áo ngoài, áo lót lần lượt bị giật tung. Chiếc quần Jeans, sau bao ngày lẩn lút,bươm lội từ Nga, trong rừng thẳm, đẫm mùi mồ hôi và nước, trở nên cứng queo đến khó cởi, vẫn bị lột phắt. Trên nệm, phơi ra cặp đùi trần đang độ thanh xuân, thon thả, mịm màng, mơn mởn, nõn nường. Gã đổ người xuống.

Cô gái biết rõ con rắn đã trườn trên da thịt mình, từng centimet. Cô tiếp tục cố oằn lên, nghiêng mình giãy, bắt tréo đùi. “Đồ đĩ! Giạng chân ra!” Giọng khàn đanh, lạnh lùng cất lên và tiếp đó, một cái tạt tai giáng sượt phía mái tóc. Chiếc cặp nhựa màu nâu văng ra, đập vào tường gỗ, nghe khô khốc. Mớ tóc cắt ngang lưng, dày, đen tuyền xoã tung, đổ xoà trên tấm ga trắng muốt. Gã rướn lên, thúc mạnh…

Cô giật nẩy toàn thân và, như con thú đã bị đạn, rục xuống đất, mắt trợn ngược nhìn lên trần nhà. Cô cảm giác tắt thở vì lập tức nhận ra một thỏi sắt nguội chọc thẳng vào cửa mình. Rát, bỏng! Cho mãi sau này, đôi khi nhớ lại, cô không khỏi rùng mình. Thỏi sắt nguội xuyên sâu vào thân xác người đàn bà trẻ như xọc ngược suốt cơ thể, vươn tới tận óc, đẩy cô rơi vào trạng thái của kẻ mộng du, hoặc hôn mê hay tương tự như vậy.

Không hiểu sao trong đầu cô khi đó lại hiện lên đôi mắt quen thuộc, thân yêu của chồng. Chính điều tưởng như vô lí ấy tăng thêm sự đau đớn khôn cùng của cô gái vừa hưởng chưa chọn hai tháng trăng mật, đã lao vào cuộc ra đi, mà mọi sự đầy bất trắc, đã diễn ra không được như dự báo.

Cô tên Quyên.

Mùa đông năm ấy, em tròn hai mươi bốn tuổi.

Ngôi nhà gỗ nằm giữa rừng thẳm. Trong không gian bao la của vùng biên giới, nó chỉ là một điểm đen nhỏ xíu lẫn vào trùng trùng băng tuyết. Cạnh đó, một chiếc chòi gỗ đen trũi, nom như ngọn tháp canh, vọt lên nền trời xám đục, xưa dành cho đám thợ săn lên cao quan sát và từ đó có thể đứng bắn ra bốn phía. Nhà có hai phòng. Phòng nhỏ chừng là nơi để đồ đạc, một cái kho nhỏ. Phòng chính rộng tới ba chục mét vuông, giữa có lò sưởi đốt củi và bếp xếp bằng mấy chục viên đá.

Một chiếc bàn gỗ nặng, dài tới ba mét. Ghế băng kê sát vách gỗ. Trong nhà có bồn rửa mặt. Một chỗ tắm không có màn che. Hai chiếc ghế băng, vài chiếc ghế tựa đóng sơ sài, nhưng nặng và chắc. Nơi này, Hiệp hội săn bắn thú dành cho những phường săn nghỉ chân, nay bỏ hoang, không ai sử dụng, từ ngày Đông Âu sụp đổ. Những kẻ đưa đường, vận chuyển thuốc lá lậu qua biên giới, mang về đầy nệm mút, dăm cái bát, nồi nhôm và ba bốn thùng mì ăn liền,v.v… Ngôi nhà trở thành nơi nghỉ tạm của chúng sau mỗi chuyến từ bên kia biên giới trở về. Bây giờ trong ngôi nhà, nghe rất rõ tiếng nệm mút ken lò-xo phật phùng, ọt ẹt. Tiếng thở chầm chậm hối hả của con đực. Những thanh gỗ bắp làm trần, được đẽo nhẵn, đóng ghép rất cẩn thận, khít sát vào nhau, tưởng như chẳng bao giờ dột được, mà nước từ đâu vẫn luồn lách, rỉ ra, chầm chậm từng giọt, loang sẫm ướt cả một vạt thảm. Lách tách,
vọng từ phía cửa sổ, tiếng băng rạn vỡ. Và, ngoài rừng gió vẫn thổi mạnh. Tiếng gió dội vào các hốc gỗ, tru lên như tiếng chó sói. Tiếng tru gần rồi lại tiếng tru xa. Nghe lạnh lẽo và hoang rợn. Những đám tuyết cuồn cuộn, trắng xoá miên man bay trên nóc rừng biên giới. Trên vạt trống bên nhà, nơi mùa xuân là cỏ biếc, gió xoáy tạo nên những vồng tuyết, trông tựa cặp vú trắng ngần, căng mẩy, mịn màng của những pho tượng nhan nhản khắp châu Âu. Mặt trời đỏ sậm, tà tà dân lên, quét ánh sáng xuống mặt đất, bất ngờ nhuộm trên tuyết trắng một màu hồng óng ánh, loang như sắc máu loãng.

Tỉnh giấc lúc chín giờ sáng, cô khẽ cựa mình. Toàn thân đau ê ẩm. Tấm chăn tuột khỏi người. Trần truồng. Nhớp nhúa. Quyên không khóc, cô chẳng có một người thân bên mình để khóc. Cô nhìn sang đối diện. Hắn, gã, kẻ dẫn đường, kể hiếp cô đêm qua đang nằm trên ghế băng gỗ, chăn phủ ngang ngực, ngáy đều đều. Lò sưởi đã tắt, chỉ còn lại lớp tro xốp như phấn tuyết và những vệt đen hoen ố. Quyên khép mắt. Giá bây giờ khóc được?

Anh ơi. Giờ anh đang ở đâu?

Mười sáu người đi trước cô và chồng. Họ nối theo nhau, im lặng xuyên qua những khu rừng trắng xoá tuyết băng. Gót chân trắng hồng của cô không chịu được chuyến đi dài ngày đã rộp bỏng, nước vàng vỡ ra từ chỗ phồng đã nửa tháng nay. Người ta dặn rằng, phải qua biên giới gần sáng, không để lại dấu vết. Bốn năm giờ quanh co trên những lối mòn, trước mắt họ hiện ra một con sông cạn. Từ đâu đó hai chiếc săm ô-tô lớn được đem tới và bình hơi nén lập tức thổi căng. Lần lượt họ được kéo qua con sông, trượt qua những đám băng nổi lều phều, để tới bờ bên kia. Quyên và hắn đi chuyến cuối cùng. Thực ra, trước đó có thể xếp cô đi với chồng, nhưng có cái săm bỗng non hơi và hắn bảo cô quay lên bờ. Sao anh ấy không nhường cô đi trước?
Tình huống đúng như một kịch bản định sẵn. ánh đèn bờ bên kia bỗng nhấp nháy và tốp người đã sang sông, cách cô có hờn năm chục mét, nhao nhác chạy dạt sang bên trái khu rừng. Cô thoáng nhìn thấy bóng chồng. Cô muốn ánh nhảy xuống sông quay lại. “Polizel ” Hắn quát nhẹ vào tai cô và nắm tay kéo thốc đi. Quyên cố ngoái đầu nhìn. Trong đêm tối, chỉ thấy những tảng băng bồng bềnh trôi. Đoàn người bên kia sông như có phép lạ, biến vào rừng đêm thăm thẳm. Và Quyên, trong bàn tay của kẻ dẫn đường thông thốc kéo, lôi ngược về con đường mòn cũ. Thực ra cô bắt đầu hơi sợ khi con đường ngập tuyết cứ tít tắp, thăm thẳm đằng trước. Cô đã hỏi gã rằng, chúng ta đi đâu? Gã nói, phải quay lại thị xã. Thị xã, ở nơi đó, cô đã nhìn thấy qua ô cửa sổ nhiều người da trắng hồng, dân bản địa đi lại. “Mình sẽ gào lên, sẽ kêu cứu, nếu chuyện gì xấu xảy ra.” Cô không thể ngờ rằng, họ cứ đi mãi và tới một ngôi nhà hoang xung quanh chỉ rậm rịt một màu rừng.

Cô nằm cạnh bếp, trên chiếc giường xây bằng gạch mộc, mặt trên lát gỗ, lấy hơi ấm từ lò sưởi. Cô là tù nhân không cần dây trói. Gã dẫn cô ra ngoài, để cô tự nhận thấy chạy trốn là vô ích.

Những khu rừng ôn đới, đa số là thông, sồi, bạch dương mọc bằng bằng, đều tăm tắp như nhau, trắng tuyết như nhau, làm cô không thể nào nhận ra, đêm qua họ đi từ hướng nào tới?

Gã hỏi, sớm nay có nghe tiếng bọn sói tru không? Chúng đi từng đàn, đói lắm, nhất là trong mùa đông.

Cô im lặng. Gã không bịa! Đêm qua, quả thật cô có nghe thấy những tiếng tru dài, hoảnh da, lạnh lẽo, xa lắc trong rừng. Nhìn ra tứ phía, tuyết trắng vẫn thông thốc cuốn, xoá sạch mọi dấu vết.

Gã tỏ ra quá thành thạo nơi này. Gã đi một lát và trở về, lôi từ đâu ra năm sáu tấm ván bắp, kéo trượt trên tuyết. Như người thợ mộc chuyên nghiệp, gã thong thả đóng chúng phía ngoài hai cửa sổ. Đóng gỗ chắn cửa sổ xong, gã hùng hục xúc tuyết, đổ đầy ắp hai cái thùng gỗ lớn, xưa có lẽ dùng đựng rượu… Quyên chợt hiểu, gã chưa có ý định buông tha cô.

Trưa đó, họ yên lặng ăn mì. Bụng rỗng đã hơn một ngày, có đói đi chăng nữa, cô cũng không muốn ăn với gã. Nhưng phải ăn để lấy sức mà chạy trốn ngay khỏi nơi hang hùm nọc rắn này. Cô cố nhắm mắt nuốt nửa bát mì không rau, không thịt, rồi uống cà-phê mà gã đã cho tới hai, ba thìa đường. Ca cà-phê thơm phức chưa kịp uống hết, gã lại tiến lại gần cô lôi thốc cô lên cái sạp gỗ cạnh lò sưởi. Mọi việc diễn ra như hôm qua, khác là hôm nay cô chẳng chống cự nữa. Cô thưỡn ra. Kệ gã! Mỗi lần gã thúc mạnh, cô nhăm mặt gắng chịu đựng. Gã thực khoẻ, dai dẳng và bền bỉ, nhịp nhàng trỗi lên, trồi xuống như giã giò. Mắt nhắm, răng nghiến, cô cố nín thở, buồn nôn lắm mà không nôn được, khi đôi môi hắn cứ gắn chặt vào đôi môi cô. Trời ạ, đôi môi vốn uơn uớt, hồng mọng, tươi mơn mởn như nụ hoa sớm mai đẫm sương vừa hé.

Nửa giờ sau, như chưa có chuyện gì xảy ra, gã để mặc cô nằm úp mặt vào tường như chết, quay ra cho củi thêm vào lò, vui vẻ huýt sáo. Không cần biết cô nghe hay không, gã dặn cô, sau chục phút nữa phải đóng cửa lò lại, cách cho củi và làm thế nào để tàn tro rơi xuống. Nếu không biết cách, nửa đêm lò tắt, lạnh đấy! Xong, gã khép chiếc cửa gỗ nặng trịch và không quên đóng thanh gỗ chắn ngang cửa. Tao đi tới chiều mai mới về. Nhẽ ra không cần đóng cửa nhưng tao sợ em sẽ làm mồi cho chó sói. Gã sốc cái thắt lưng đeo con dao găm thợ săn dài, nói vọng vào nhà.

Im lặng tới ghê sợ, cô ngồi dậy, nhìn quanh. Cô nhào khỏi sạp gỗ, vội đi lục tung cả hai gian phòng, mong tìm được một vật cứng. Trong phòng nhỏ chứa đồ, cô thấy một chiếc tô-vít ngắn. Tô-vít quấn vào sợi dây. Cô giật mạnh. Theo cái tô-vít bung ra là chiếc máy Video, miệng ổ tra băng đã bợt hết sơn, trơn cả nhựa. Rất nhiều cuộn băng òa rơi theo. Cô nhặt một chiếc băng giơ lên ánh sáng. Tấm ảnh màu in hình cô gái lõa thể, môi đỏ chót, chân dài dạng ra rõ nét. Cô ném thẳng chiếc băng vào tường gỗ. Cú ném khá mạnh. Hộp băng vỡ tan, tấm ảnh bay xuống đất không rách, còn nguyên lành.
Tại nhà ngoài, cô tìm được con dao thép trắng, loại mỏng mảnh dùng để cắt bánh mì.

Những tấm ván bắp rất dày, chắc bọc quanh nhà, liên kết với nhau như một khối liền. Các cánh cửa đều chắc và rắn như thép, không hề suy suyển, dẫu cô đã hết sức lay, đập, lắc, chọc, cứa. Quyên ơi, mày thực sự chết rồi! Cô ngồi bịch xuống đất, bất lực! Cô oà khóc, nức nở. Lát sau, chừng đã khóc thoả thuê, cô đổ người trên sàn gỗ, rũ ra, nằm im như một cái xác.

Một ngày trong tù dài lắm! Quá trưa, cô chỉ ăn một gói mì. Mì không rau, đắng. Có lẽ tới bảy tám giờ tối cô ngồi đống đá rất lâu bên cửa sổ nhỏ, nơi còn chừa một khe hẹp duy nhất có thể nhìn ra ngoài.

Tuyết bớt rơi. Trăng non. Mặt tuyết sáng bạc, ánh lạnh. Những đám tuyết quá dày, trĩu nặng trên các cành thông, thi thoảng lại đổ sập xuống mặt đất. Nghe rào một tiếng khô lạnh. Đêm khuya, có nhiều tiếng động lạ quanh những bức tường gỗ. Vài tiếng tru, khi gần, khi xa, khi mơ hồ vọng về lúc gần sáng. Cô rùng mình, co rúm trong tấm chăn mỏng mà gã đã ném lên đệm trước khi ra đi.

Tận chiều sẩm hôm sau gã mới trở lại. Trên lưng một bao khoác nặng. Gã hơi nhếch mép cười, khi thấy cô ngồi bó gối bên cạnh lò sưởi, rồi ném bao đồ xuống sàn. “Đêm qua sợ không? Sắp hộ các đồ ăn lên bàn bếp đo! Tao có mua đền em vài thứ vặt”. Gã chỉ cái thùng thiếc mỏng, rỗng: “Cái này mang về cho em đun nước tắm. Em để lên mặt lò và múc nước đầy vào. Làm vậy, khi nào cũng có sẵn nước nóng”.

Quyên mở túi, xếp ra mặt bếp hơn hai chục cân thực phẩm tươi và khô các loại. Vài chục gói mì, gạo. Những thỏi xúc xích, mấy tảng thịt lợn hun khói có lớp bì, mỡ trắng, bọc trong ni-lon; cả thịt bò và một con thỏ tươi đã lột hết da. Muối, đường, mì chính, xà-phòng bọc trong hai cái khăn tăm rộng,v.v… Dưới đáy túi, cô nhặt lên hai lố xi-líp, xu-chiêng, loại sáu cái một, ghim bằng miếng bìa nhỏ. Lại một hộp kem thoa mặt và bộ cắt móng tay mà ngoài hộp có hình cô gái tóc vàng sóng, rất đẹp đang như tủm tỉm cười với cô. Cô rùng mình! Quyên ơi, mày cũng đẹp mà sao đời mày lại khốn nạn thế?!

Gã im lặng xem cô soạn đồ và thong thả nhâm nhi cốc rượu whisky vàng sậm. “Tuyết dày lắm không đi nhanh hơn được. Bọn chó bên kia thanh toán còn thiếu tiền. Mua dăm thứ vớ vẩn ấy, tao phải đi ba bốn nơi. Gần ba trăm cây, đường trơn quá, mấy lần xe cứ trượt trên băng và xoay ngang. Em có sốt ruột không?”

Quyên không trả lời.

Em có sốt ruột không? Có khi nào cô mong con thú ấy trở về mau chóng? Mà gã xưng hô kì lạ thực, tao và em. Lần đầu tiên trong đời, cô nghe thấy một cách xưng hô tơn tởn, bầy nhầy, nửa nạc, nửa mỡ.

Hai tháng trời trôi qua. Những ngày sau cái buổi đầu tiên ấy, cô buộc quen dần với sự thoả mãn của gã. Mỗi bận đòi, gã không xưng tao, cũng không câm lặng như trước: “Cho tôi yêu nào! Yêu nào!” Sau câu nói trơ trẽn ấy của gã, Quyên thấy mình vô duyên thê! Nhưng cô vẫn phải ngoan ngoãn, ngoan ngoãn tự nằm lên tấm đệm mỏng đặt trên kệ sát bếp.

Trong Trường đại học Tổng hợp, khoa Văn, khi còn là sinh viên, Quyên nổi tiếng là người vừa đẹp vừa thông minh. Thông minh, theo cô chẳng là cái gì ghê gớm lắm, chỉ là biết quan sát nhanh và xử lí đúng thông tin mà thôn. Vào hoàn cảnh này, ngoan ngoãn, đó là cách tốt nhất để rất nhanh chóng kết thúc một trò chơi bắt buộc. Nhưng không bao giờ cô yêu gã! Không! Thường là, cô nhắm mắt, mặc kệ gã vầy vò. Cũng có khi cô chẳng nhắm mắt, thao láo nhìn lên trần nhà, hai tay buông xuôi, cố nghĩ tới những chuyện vu vơ khác. Cô chống lại tất cả, kể cả sự tự nhiên của tạo hoá, khi những gì, ngoài ý thức, trong cô bị cơn sóng tình dồn dập, cuồng điên của gã đánh thức. Điều đó xảy ra thường là ở cuối cuộc. Nhất là, sau một thời gian, khi cố đã bắt đầu quen thuộc cả hơi thở, từng động tác và thân thể của gã, tới từng centimet. Cô nghiến răng tưởng vỡ tan cả hàm răng trắng đều tăm tắp và phát hiện ra rằng, cũng chả ăn thua gì! Rồi cô chợt tìm ra như một phát kiến mới, rằng cô phải tự cấu, cào, rứt vào vế đùi non mình. Những móng tay sắc cấu, bấm cào mạnh vào da thịt non, toé cả máu. Chỗ da mỏng non ấy, sau này để lại hai vết sẹo mà chỉ cô, chỉ cô thôi mới hiểu vì sao?

Tháng Ba, khi tuyết ngừng rơi và mưa rỉ rả, gã dẫn cô đi khắp những khu rừng quanh đó, rồi bảo, em có thể ra ngoài nhưng chỉ trong khu vực này. Rừng châu Âu, nơi ấy chỉ dăm bảy loài cây, đa phần là thông, sồi, bồ đề và dẻ. Mỗi năm một mùa cây trút lá, lớp nọ đè lên lớp kia. Có nơi, đám lá ải mục ấy dày tới nửa mét. Nom rất phẳng, thậm chí mịn màng, thế mà đi qua nó chẳng hề dễ dàng. Một dịp, nhân lúc gã có việc đi vắng ba ngày, Quyên lần ra khỏi nhà. Cô mò mẫm đi, luẩn quản trên các lối mòn tới hơn hai giờ, rồi lại quàng đúng về khu rừng cũ. Thử sức vào sớm hôm sau, liên tục định lại hướng chuẩn, cô gặp một vách đá cao ngất. Không thể vượt qua được! Quyên ngồi phệt xuống đất, trước vách đá đầy rêu trơn, suýt nữa oà khóc! Gã nói đúng, hoạ chăg chỉ có mọc cánh. “Nếu như không sống đủ năm tháng với rừng, chuyển thuốc lá lậu, đưa người…” Những con thú đánh dấu đường bằng hơi, bằng nước tiểu, bằng hương xạ, bằng những gì chỉ có trời mới hiểu. Gã và những kẻ tương tự như gã mới có thể đùa chơi với rừng hoang không cần lối mòm, không cần đánh dấu. Sau này gã giải thích: “Những kẻ bị đẩy vào rừng, khi hiểu rừng, sẽ tự tìm thấy đường”.

Rằm tháng ấy, Quyên giật mình sau khi đếm những vạch khắc trên cột gỗ và tự khẳng định mình có thai. Suốt đêm cô lo sợ, trằn trọc. Cô sợ hãi điều ấy hơn sợ cả những tiếng tru từng đêm vẫn vọng về. Không thể như vậy! Mình nào có yêu gã mà lại có thai, cô sẽ ăn nói với chồng cô, mẹ cô và gia đình cô sau này ra sao? Cô khóc, vật vã, cấu xé mình, thậm trí vỗ bồm bộp vào bụng. Chẳng có gì xảy ra sau đó.

Cái thai trong bụng cô gan lì, ngày lại càng có những dấu hiệu phát triển mạnh mẽ.

Tháng tư đến, những cánh rừng châu Âu mới đẹp làm sao. Tuyết băng tan đi. Mưa, rồi giớ mươn man thổi. Mặt đất lộ dần những trảng cỏ, để vài ngày dưới nắng vàng trong suốt, một thảm xanh biêng biếc, nõn nường hiện ra, trải rộng khắp bìa rừng. Các loài hoa dại bắt đầu đua nhau mọc, tạo nên nhiều mảng đủ màu đủ loại phơn phớt trên nền xanh. Những vạt cây gì chẳng biết tên, tựa như loài mai mà cô đã từng nhìn thấy ở phương Nam quê hương, sau vài ngày nóng ẩm, vụt trổ từng trảng hoa vàng rực, chói chang. Cái bụng cô cũng vụt cao lên, căng ra và, ngày lại ngày cô cảm thấy rất rõ, một sinh linh đang lớn dần, cụng cựa trong đó. Sự cảm thức có một sinh linh thật kì diệu! Nó tự nhiên nâng đỡ cô, cho cô cảm giác bớt cô quạnh, có thêm một con người. Con người duy nhất cho Quyên có thể trò chuyện, tâm tư chia sẻ trong hoang lạnh. Nhất là mỗi khi gã lại bỏ đi, mất tiêu trong những cánh rừng ngút ngát.

Song cũng có những cảm thức khác lại hành hạ cô. Quyên, mày là đứa khốn nạn! Bên bờ suối nước trong vắt, mặt nước lặng sáng như gương, có một lần cô tự và đôm đốp vào hai bên má, khi thấy khuôn mặt cô có già dặn thêm tí chút, nhưng lại rực rỡ hơn. Rõ khốn nạn! Khí hậu châu Âu, tẩm ướp trong cái lạnh heo heo, vốn hợp với phụ nữ. Lại chuyện nữa, mấy bận cô leo lên chòi cao, rồi đứng mãi trên đó, suốt cả những buổi chiều. Sau mấy lần như vậy, cô tự nhủ:”Con Quyên, mi thật là kẻ hư đốn!” Cô căm thù gã, muốn giết gã mà chưa được. Nhưng thời gian trôi qua, mọi sự chung đụng đã làm cho cô thân thuộc với gã đến từng chi tiết. Cô thân thuộc từ giọng nói tới cử chỉ, thân xác và đặc biệt mùi của riêng gã. Điều đó chính là điều làm cô sợ hãi. Cô hoàn toàn không chịu được cảnh cô độ một mình trong rừng hoang. Không thể nói ra, cô căm ghét chính cô. Nhưng như một phản xạ vô điều kiện, cô vẫn lên chòi cao, mong ngóng bóng dáng gã. Bồn chồn, khắc khoải, trên cái chòi cao cô độc ấy, cô mong gã đột ngột hiện ra từ một khoảnh rừng nào đó tiến lại ngôi nhà. Có một lần, thấy bóng gã xuất hiện đúng như trong tưởng tượng, cô vội chạy gấp xuống chòi, trở vào căn nhà và, tim đập rất nhanh nhưng trống trận…

Cô tự biết, cô không phải loại người đầy năng lực nhục dục. Cô cũng tuyệt nhiên không yêu gã. Nhưng một lần nữa, sau hơn tuần vắng mặt, cô mong hắn về cồn cào và, đêm ấy bằng sức mạnh man dại của một thằng đực, gã đẩy cô tới tình trạng cực khoái một cách mê muội. Trạng thái mà cô chưa khi nào cảm nhận thấy, ngay cả hồi cô yêu thương với chồng cô. Chính đều trớ trêu ấy, làm cô muốn bấu chặt lấy hai vai gã, muốn cào cấu cho nát rách bắp thịt căng cứng như được bơm nén đầy khí. Những bắp thịt rắn chắc, cuồn cuộn nở căng trên ngực và cánh tay của một gã giang hồ đáng ghét, đáng căm hờn, sao trong khoảnh khắc ấy lại có một mãnh lực cuốn hút cô? May mà cô cố kìm hãm, nhớ ra và, thay vì muốn làm như vậy, cô lại phải cào rõ mạnh xuống đệm giường. Chỗ cào ấy làm rách, xơ lên một đoạn drap dài. Toàn bộ những diễn biến này, vô tình tạo thành một sự giằng xé hỗn tạp, khó phân định trong tâm hồn cô, cho cô thêm đau khổ tới khôn cùng sau những trải nghiệm đó. Nhất là nhiều năm sau này, mỗi khi có dịp nhớ lại, cô càng tự dằn vặt khi nghĩ suy về sự lạnh lùng, trớ trêu của tạo hoá. Một hoàn cảnh mà trong đời sống cô không bao giờ mong chờ, thậm chí tưởng tưởng ra, giờ lại luôn gặp phải, nhiều đêm đối diện với nó.

Một đêm, gã không vội vàng yêu cắn xé như mọi lần. Trời xui khiến thế nào, sau hi cô cởi hết quần áo, gã cứ ngồi yên lặng, nhẩn nha hút thuốc, rồi ngắm cô. Nghiêng người, cô muốn tránh cái nhìn như xuyên sốt thân thể đã trần truồng của mình. Bỗng gã chồm lên.”Em đã có thai?” Mắt gã sáng lên:
“Tao hỏi nghe thấy không?” Quyên xoay mình, càng lộ rõ cái vồng nhu nhú không bình thường mà trước đó bao lần hắn xoa bàn tay thô chắc, mãn nguyện lên vùng bụng phẳng căng, mềm mại “mát dịu như mỡ đông”.

Phải, gã là kẻ biết chiêm ngưỡng, không chỉ dừng lại ở thuộc tính bản năng của con đực. Chính gã từng thốt lên với mấy thằng bạn trong bữa rượu bên kia biên giới:

– Chúng mày chỉ nhìn đàn bà qua khuôn mặt thôi. Biết đếch gì! Chưa thấy một đứa nào đẹp như em. Mặt, mũi, chân, tay… ối trời ơi! Mắt ơi là mắt,
da ơi là da. Tuốt tuồn tuột… chỉ muốn vỡ vụn, tan mẹ hết cả đi, để xối chảy ngay vào em hoặc ngược lại, em thấm ngược vào tao. Tóc đen, mát!
Bụng, ngực cũng mát lắm và, bọn mày biết không, ở dưới đó một vùng mươn mướt, mượt đen xanh tốt bời bời!

Quyên im lặng. Cô không trả lời gã. Không hiểu sao, câu hỏi “Em đã có thai?” làm cô trào lên một niềm căm thù gã khôn tả. Cô bất ngờ vùng dậy nắm phắt lấy con dao bếp và lao vào gã. Lưỡi dao thép trắng rất bén nhưng mảnh, yếu và hơn nữa là cô không thể nhanh hơn con người đã từng nhận là Con hổ của Taiga từ những ngày lang bạt ở Nga. Gã nhanh hơn sóc, phắt tóm gọn bàn tay cô, bấm nhẹ. Con dao rơi xuống đất. Cô sợ hãi lùi sát tường, hai tay quờ quạng hai bên tường cố tìm vật gì có thể mang lại sức mạnh. Nhưng cô không thể ngờ, gã chẳng đánh cô một cái bạt tai như cô tưởng. Gã bất ngờ ôm lấy hai vai cô, nhẹ nhàng nắm lấy đôi bàn tay của cô, rồi áp vào đôi môi gã.

Lần đầu tiên trong suốt thời gian biết gã, Quyết thấy đối mắt sắc lạnh chợt có ánh vui và dịu đi những tia sáng mà cô căm ghét.

Quyên thực sự không thể hiểu được dạng người kiểu gã. Cô cũng không hiểu nổi chính mình cả bản thân cô. Có một bí mật nào đó mà cô không thể giải mã, để từ đó có thể tìm cách thuyết phục gã, rồi giải thoát cho chính mình. Đêm qua gã nhẹ nhàng với cô lắm, thế mà mới hôm sau, gã lại trở về vẻ lạnh lùng, từ chối mọi đề nghị của cô. Gã bảo, tao không phải là trẻ con! Gã nói, trên đời này, lòng tin thì không tiền bạc nào có thể đổi được, nhưng nếu chưa qua nhiều thử thách, chưa trực tiếp nhận ra thì người ta không nên vội vã. Không thể cả tin! Gã yên lặng một lát rồi nói có vẻ trân
tình, gã đi một tuần vì công việc kiếm ăn không thể trì hoãn được. Gã tự thú “Nói thật, bây giờ tao chẳng muốn đi đâu. Tao chỉ muốn nằm trên nệm, xoa bụng em và áp tai vào đó suốt cả ngày lẫn hết đêm”.

Phần 2

Hơn hai tháng sau đó, có một đêm gã chợt reo lên thích thú. Đôi mắt gã sáng rực lên trong đêm và bảo, em có nghe thấy tiếng tim đập trong bụng em không? Trời ơi, gã là đứa chả hiểu gì! tại sao cô lại không nghe tiếng động của thai nhi mà bất kì người mẹ nào đang mang thai, chả cần tai cũng nghe thấy.

Những ngày vắng gã, những đêm trắng lạnh, Quyên vẫn nghe tiếng nói của một sinh linh đấy thôi. Cô nghe bằng các huyết quản li ti của cô, nghe bằng chính da thịt cô, bằng quyền năng mà Thượng Đế chỉ dành cho đàn bà. Cô nghe tiếng đập, cú đạp, cảm thấy được một cách rõ ràng khi nó ngủ hay thức… Cũng sau đó, trong Quyên, xuất hiện hai tình cảm đan chen, giằng xé, vừa thương, vừa ghét. Rồi sau đó là một sự bải hoải, chán chường đến ê chề.

Cũng từ khi phát hiện ra tiếng đập rõ ràng ấy, gã không có các chuyến đi dài ngày nữa. Mỗi khi phải đi đâu đó, có khi dù chỉ một ngày, gã tuyên bố, sẽ sắp xếp để mau về với con. Từng đêm gã thích thú áp tai vào bụng cô nghe tiếng tim thai. Hai bàn tay gã ấp vào bụng Quyên, thường là gã nhắm mắt. Khuôn mặt khi ấy của gã chợt thơ dại, hiền ngây như đứa trẻ. Những giây phút ấy, tự nhiên gây cho Quyên một cảm giác bình yên kì lạ. Nhưng sau những giây phút ấy, cô lại không muốn nó tái diễn và hoảng sợ khi biết rằng, cô khó quên đi hình ảnh ấy của gã và những tình cảm ngay khi đó nảy sinh trong cô. Dù những tình cảm ấy mới chỉ như có ngọn lửa rất nhỏ, thấp thoáng trong tâm hồn.

Gã mang về nhiều loại thuốc, nói là thuốc bổ sung chất bổ cho đứa con còn chưa biết hình hài. Quyên xem, bảo, một dạng vitamin! Gã cười, không phải, vi lượng! Đêm ấy lần đầu tiên Quyên thấy, không hiểu vì sao, gã có vẻ buồn. Gã uống hết chai rượu Poland có sợi cỏ màu nõn chuối mảnh mai bên trong. Gã nói chuyện với cô tự nhiên như với một người bạn thân nào đó, thao thao nói về vi lượng. Gã giải thích cho cô biết rằng, vì sao vải thiều trồng ở Thanh Hà ngon, hạt nhỏ vậy mà trồng ở nơi đất khác lại chua loét, hạt to ra. Gã làm cô cũng nhớ nôn nao các đặc sản ở quê hương khi gã nhắc tới bưởi Đoan Hùng, nhãn lồng Hưng Yên. Xem ra, đêm ấy, gã không phải là một kẻ vô luân! Gã hoá thân thành một người nào đó xa lạ vô cùng với con người bấy nay của gã. Một ngày, gã chiều chuộng cô ra mặt. Gã tự tay thái thịt lợn nạc, ướp hạt mùi, nấu nướng hì hụi cả hai giờ đồng hồ, làm món giả thịt gấu cho cô ăn. Gã đun nước tắm và pha xà-phòng sữa nở bọt trắng xoá. Khi cô tắm, gã cứ nằng nặc đòi kì lưng cho cô nữa. Thôi, thây kệ! Tối đi nằm, gã nghiêm cẩn như tượng gỗ cạnh Quyên, không hề quấy nhiễu và trằn trọc, mắt thao láo tới sáng thì phải.

Ba ngày sau, gã ngồi bên cô, nhìn ra ngoài trời và hỏi, tại sao cô lại sang đây? Cô im lặng. Gã thủng thẳng nói, mỗi năm tôi đưa qua đây hàng mấy trăm người. Đủ các loại người. Hầu như tất cả đều vì miếng ăn, vì muốn có nhiều tiền mà rời bỏ quê nhà chạy sang đây. Gã bảo, cực chẳng đã mới phải đi như gã. Nếu gã có vài ngàn đô như cô thì chẳng bao giờ đi ra nước ngoài làm gì. Nếu có đi là đi chơi, đi như một du khách. Và đời gã sẽ chẳng xuất khẩu, chẳng đưa đường.

Gã phản đối cô rằng, chẳng phải riêng cô đang bị cầm tù. Gã và nhiều người khác cũng đang bị tù. “Lúc mới đi tây, người ta ham hố, thích thú lắm.
Càng sống lâu, khi mọi vật chất trở nên nhàm, mới thấy con người cần nhiều thứ khác còn lớn hơn vật chất. Phải, giá như có tiền, tôi ở Việt Nam với mẹ và em trai tôi”. Gã bảo, khốn nạn cho kẻ nào, sinh ra ở một nơi, tuổi thơ, tuổi đời thấm đẫm gió, mưa, nắng, nước, cả không khí, gia đình, bạn bè… gọi là vùng đất kỉ niệm, lại phải dứt bỏ nó, mất đứt nó, ra đi tới vùng đất khác, mà nơi ấy, thổ nhưỡng, khí hậu, phong hoá chẳng thể như nơi sinh ra kẻ ấy. Gã cười gằn trong đêm: “Em nghĩ xem, tao trấn ngự khu này với ba bốn người nữa, đưa người vượt biên, chuyển thuốc lậu, tiền lậu… chỉ để có tiền. Chui lủi trong rừng, ba năm rồi, năm thì mười hoạ bọn tao mới về thành phố để đập phá, đánh bạc, chơi điếm. Cũng chả có tình cảm gì cả. Có tháng bão, gió, băng tuyết nhiều, không có hàng, nằm khãn mãi trong rừng xem phim sex, thủ dâm. Cuộc đời chó má! Một cục phân dài vô tận!”  – Gã cười nhạo.

Gã tự bộc bạch chả che chắn gì, làm Quyên chợt nhớ tới đống băng sex và cái đầu đọc băng đã mòn trơ cả nhựa mà cô tìm thấy trong phòng nhỏ hôm nào. Quyên buộc miệng hỏi, sao không tìm người mà yêu? Gã cười nhạo, tình yêu ư? Đấy là một khái niệm phù phiếm nhất trên đời. “Em chưa biết gì cuộc sống cả đâu” Gã cười khẩy rồi nói tiếp:

– Con người ta, chó cùng rứt giậu. Giống người có sức mạnh nhiều khi không tưởng được. Đã có lần tao vọt qua một con hào tới hơn bốn mét khi bị cảnh sát truy đuổi.

“Giỏi thế! Thật không?” Cô khen gã. “Không giỏi giang gì. Bản năng mà! Bản năng con người ghê gớm lắm!” Gã thản nhiên nói như một nhà hiền triết.

Bản năng!? Quyên âm thầm suy nghĩ trong đêm. Gã có lý. Những kẻ như gã, bị đẩy vào những hoàn cảnh nghiệt ngã, không xóm giềng, không dư luận, để tồn tại, phải mãnh liệt, huy động hết những sức mạnh tiềm ẩn thành ngọn lửa ghê gớm có thể thiêu huỷ tất cả, cả chính họ… Còn cô, cô chống lại sức mạnh ấy, một cuộc đối đầu tồi tệ, tủi hờn làm sao?

Một ngày mưa rất lớn. Nhìn ra ngoài trời, mây đen nặng trịch bay rất thấp, giội nước rào rào, tạo thành trên mặt đất những con suối nhỏ đen xám, ngầu bọt. Tám giờ tối hay chín giờ gì đó, Cánh cửa vừa bật ra, gã loạng choạng bước vào và độ sập xuống sàn gỗ. Toàn thân gã như bốc khói. Hôi, bẩn thỉu và sũng nước. Suốt đêm gã đòi hết lấy đã chườm trán, rồi lại đến đốt lửa thật nhiều cho không khí trong nhà thật nóng. Nhìn gã rõ thảm hại. Khi co rúm, khi run rẩy, vật vã. Có lúc gã rên rỉ và gần sáng bật ngồi dậy, tự đập đầu đôm đốp vào tường gỗ. Gã kêu đau đầu dữ dội. Gã cảm! Quyên đoán vậy.

Quyên đặt tay lên trán kẻ thù của cô. Nó như một hòn than hầm hập nóng. Mồ hôi đầm đìa trên tóc, vai, cổ, cả trong hốc mắt. Không hiểu sao Quyên chợt nhớ tới mẹ. Có một lần, lâu lắm, anh trai cô cũng bị cảm. Vâng, hôm đó mẹ cuống lên, Quyên cũng cuống lên.

Con người đôi khi thật buồn cười. Cô lấy nước lạnh chườm lên trán gã; lấy nước ấm vò khăn lau toàn bộ người gã, cho gã uống hai viên thuốc cảm tìm thấy giữa đống tiền xu bẩn thỉu. Chữa bậy bạ như vậy mà sáng ra gã đỡ vật vã. Tới trưa thì phải, gã thiêm thiếp ngủ, cái đầu gối trên đùi cô sực lên mùi mồ hôi đặc trưng của riêng gã. Mùi mồ hôi ấy, cô chẳng có cảm giác ghê sợ nữa, bởi tám tháng nay đã trở thành quá quen thuộc.

Con người đầy sức mạnh, tưởng không thể nào gục ngã như gã, không ngờ một trận cảm có thể biến thành dải khoai mềm oặt như thế. Nửa đêm sau, gã kêu khát nước, rồi nhỏm dậy, lẩy bẩy tự mình lê tới bên thùng gỗ. Quyên nhìn thấy gã vừa uống nước vừa thở, tay vịn vào cái miệng thùng. Chỉ như vậy mà cô chợt thấy lòng chẳng yên.

Gã loạng choạng quay về sạp nằm. Quyên muốn tới dìu gã. Gã gạt tay cô ra, gắng bước, rồi đổ vật xuống sàn. “Em tốt lắm. Giống mẹ tôi quá!” Gã yếu ớt nói và xoay mình, quay mặt vào tường. Gã thiếp đi ngủ mê mệt tới tận trưa hôm sau. Đêm ấy Quyên thật khó ngủ. Gã mê sảng gì đó, chắc dữ dội lắm; ú ớ, thậm chí gào thét, nói những câu chẳng rõ nghĩa suốt trong giấc ngủ.

Quyên không thể tự giải thích, vì sao cô có thể còn thương xót loại người như gã. Sớm sau, cô nấu cháo, đun nước gừng, đánh cảm cho gã bằng chiếc thìa lớn và nói như mẹ cô hôm nào, khi bắt cô uống bát nước gừng thật nóng: “Uống đi, vừa thổi vừa uống! Uống thật nóng, sẽ hết cảm!” Gã ngước nhìn cô chớp mắt, rồi ngoan ngoãn ngồi dậy, dựa lưng vào tường gỗ, uống bát nước cay sè, nóng giãy.

Thế mà trước đó, trong đêm tối, khi gã thiếp đi, Quyên đã có lúc cầm con dao bếp giấu sau lưng tới sát bên gã. Nhưng khi nhìn khuôn mặt của người đàn ông đang ngủ, cái miệng như hơi mỉm cười, cô không còn sức mạnh để thực hiện ý nghĩ táo bạo. Con dao bếp từ tay cô rơi xuống sàn gỗ phát lên tiếng khô đục. Tiếng động làm gã bừng tỉnh. Thấy người đàn bà vẫn thức, đứng bên mình, gã cười méo mó, lần mò nắm bàn tay Quyên, rồi áp đầu vào ngực cô.

Có thế thôi mà Quyên khóc. Đôi mắt Quyên trong đêm thăm thẳm, đen huyền, giờ lặng lẽ tràn nước mắt.

Gã trằn trọc.

Tôi biết em chẳng bao giờ yêu tôi cả. Tôi chiếm đoạt thân xác em và thoả mãn tới cùng cực mọi thèm khát. Nhưng tôi biết, em chưa khi nào yêu tôi! Đó cũng là sự cân bằng, sự trả giá, bởi vì chúng ta gặp nhau, tôi đã chiếm đoạt thân xác mà không có tình yêu… Nói toạc ra là trước đây, tôi cũng chẳng yêu em. Yêu là cái đếch gì!

Tôi chẳng giấu gì em. Tôi đã có một đời vợ. Vợ tôi không đẹp được như em. Nhưng chúng tôi yêu nhau. Cô ấy là diễn viên múa thuộc đoàn văn công X. Chúng tôi có một căn nhà cấp bốn xập xệ ngoài thành Hà Nội. Còn tôi, khi ấy, tốt nghiệp Đại học Lâm nghiệp xong, được phân công về Bộ, trong bộ phận Nghiên cứu phát triển rừng đầu nguồn. Suốt một thời, tôi nghĩ và luôn tin rằng cô ấy là người đàn bà đẹp nhất trên đời. Mà nói thực, thân hình vợ tôi cũng tuyệt lắm. Tôi muốn có một đứa con nhưng cô ấy chưa muốn. Cô ấy nói, nghề của em chủ yếu là trông vào thể hình. “Bây giờ còn múa được, có con thì ai dùng, lấy gì mà ăn?” Cô ấy có lí! Trong đoàn của cô ấy, tôi biết, một diễn viên cùng đoàn, sinh một con rồi nom như bà Phán. Có ai muốn xem “bà Phán” múa đâu! Mà tôi thì chưa nuôi được vợ. Chưa nuôi được vợ thì sao có thể thuyết phục cô ấy sinh con? Nhưng rồi năm sáu năm trôi đi, cô ấy cũng chẳng khá hơn trong nghề nghiệp tí nào. Vợ chồng vẫn cứ hai cái bếp dầu, một cái giường phân phối và hai cái quạt con cóc. Bát đĩa cái sứt, cái mẻ. Tôi đi công tác liên miên, nên chẳng khi nào đưa vợ được một xu. Cô ấy nạo thai tới bốn, năm lần trong hai năm. Lần cuối cùng, có một sự cố kĩ thuật, cô ấy vĩnh viễn không bao giờ được làm mẹ. Tuy thế, tôi chưa khi nào hao giảm tình yêu với vợ. Đôi khi nghĩ lại, tôi oán cái vô dụng của chính mình. Năm ấy đoàn đi biểu diễn ở Tây Nguyên, biên giới, hải đảo. Ba tháng sau về cô ấy lăn ra ốm hơn hai tháng. Tưởng chết. Khi ấy thương vợ lắm mà chẳng có cách nào thoát ra khỏi hoàn cảnh khó khăn đeo bám. Lúng túng vô cùng.

Thời gian ấy, người ta ào ạt tổ chức các đợt Xuất khẩu lao động. Đoàn văn công của cô ấy có tới hai suất. Bàn đi tính lại, tôi để cô ấy đi. Làm thằng đàn ông, không nuôi nổi mình, phải để vợ đi xa kiếm tiền là sự hèn hạ, kém cỏi không thể tha thứ! Người ta bấy giờ có câu, cho vợ ra nước ngoài kiếm ăn, như có xe đạp Pờ-giô mang ra Bờ Hồ không khoá. Tôi cóc tin! Sau này khi đã đổ vỡ hết cả, tôi tự trách mình.

Xa nhau sáu tháng, tôi trống trếnh vô cùng. Tôi ăn uống vạ vật. Bạ đâu ăn đó, rộc rệch hẳn đi. Những chuyến công tác dài ngày trên rừng còn có anh em lâm trường, anh em các xã vùng núi, vui vui một chút! Vật chất, ăn uống có khi đỡ hơn là sống tại nhà mình ở Hà Nội.

Tôi nói thêm cho em biết rằng, công việc của tôi rất thú vị. Có thể chính vì thế đôi khi tạm quên đi nỗi buồn khi chỉ mình tôi tự biết: mình chẳng bao giờ có một đứa con. Thường sống với rừng, những khu rừng nguyên sinh đầu nguồn với bao bí mật, mà khi nghiên cứu nó, thấy đầy hấp dẫn. Hấp đẫn tới ma quái. Nhưng người ta không thể uống nước lã để yêu. Dù yêu vợ hay yêu rừng.

Yêu! Người ta nói trò cặp bồ yêu đương lung tung trong những đội quân xuất khẩu làm tôi như ngồi trên đống lửa. Hơn tháng sau, một lá thư nồng nàn thương nhớ của cô ấy bay về. Tôi nghiến ngấu đọc. Đọc đến nhầu lá thư đó và cũng yên lòng đôi chút.

Đêm đêm, tôi nhớ vợ, nhớ lắm. Tôi nhớ miên man, nhớ cồn cào, những lần ân ái! Nhớ mùi tóc, mùi nách, mùi miệng… bao nhiêu năm đã quen hơi bén tiếng rồi, thoắt một cái, tôi cách vợ cả nửa vòng trái đất.

Cuối mùa đông năm ấy, cơ quan tôi cũng có hơn chục suất đi Nga. Tôi vón vén toàn bộ những gì cô ấy gửi về, bán cả xe đạp, hai cái quạt con cóc, tất cả được hơn hai chỉ, đút lót bằng được, nịnh bợ mãi, với hai ba lần bia hơi cho tay nhân sự trên phòng lao động, để nhận một suất sang Nga. Biết chắc có một suất đi Nga rồi, tôi liên lạc với vợ gấp mà chắc cô ấy không nhận được tin.

Tôi bay sang Nga. Lại vay tiền mua hàng mang sang bán. Khốn nạn, lần đầu tiên trên đời, để tránh thuế quan Nga, tôi phải mặc ba cái quần bò, ba áo bò, dăm áo phông vào người. Suốt chuyến bay như bó giò, cố ngủ mà chẳng thể ngủ được. Chuyến bay dài thế…

Máy bay hạ cánh. Tất cả đám quan ba bốn trăm người, đồng phục toàn bò là bò được lùa xuống, xanh lét cả sân ga Moscou. Chúng tôi dóng hàng chui tuốt vào đoàn xe Bus, rồi chuyển lên tầu hoả. Mệt nhoài vì vạ vật gần nửa ngày ở Nội Bài, rồi bay hơn chục giờ, lại tiếp tục tăng-bo mấy lần, chúng tôi ngất ngây, nửa tỉnh, nửa thức trên chuyến tàu chạy như điên như dại, hai ba ngày trời không nghỉ. Ngó ra cửa sổ, con tầu vun vút chạy, trôi ngược ra sau là những vùng trắng xoá, mông mênh toàn tuyết là tuyết.

Hơn một tháng qua đi, tôi vẫn khó quen với cái lạnh khắc nghiệt trong những khung rừng Taiga. Nhưng vẫn phải chịu đựng vậy thôi! Bù lại, cuộc sống vật chất hơn hẳn ở nhà. ăn uống no, thừa bãi bánh mì, sữa và làm việc cũng cật lực.

Tôi ở đội thuộc một lâm trường khai khác gỗ. Đúng với cái nghề của tôi. Chỉ khác là xưa kia, mình chỉ đạo công nhân, còn bây giờ, chính mình làm những việc ngày xưa đã hướng dẫn họ. Mà còn tồi hơn, khi mỗi người công nhân Việt Nam khai thác gỗ, được khoán tới hơn mười khối gỗ một ngày. Mười khối gỗ một ngày! Em biết không, cắt, cưa, băm và xếp bằng máy cả đấy! Giữa trời lạnh thế mồ hôi vẫn cứ vã ra, ướt đầm vai áo. Mấy ngày đầu chưa quen việc, người như tôi to vâm, chắc khoẻ vậy mà ngày ngày đi làm về, chân tay như chẳng còn là của mình nữa.

Gã húng hắng ho, rùng mình. Dường như trong bóng tối, gã nhớ tới những khu rừng gỗ tại Sibia mà ớn lạnh rùng mình chăng. Nói tiếp:

– Tôi căm ghét cụm từ Xuất khẩu lao động. Con người chứ đâu phải gạo, tre, nứa lạt, thịt thà gia súc, rau dưa gì mà mang xuất khẩu! Đã đành sức lao động là hàng hoá đấy! Nhưng với cái tình của người Việt xưa nay, ai lại quên đi để nói như thế! Không chỉ là một cách nói về một công việc làm những kẻ ra đi tổn thương đâu! Biết bao điều khoản, những quy định về ăn, ở, chửa đẻ coi người ta như gỗ đá ấy… ví như quy định cho một người đi Xuất khẩu ăn ở trong sáu mét vuông. Sáu mét, cô hiểu không? Sáu mét, tức là bốn đứa một phòng còn bọn tây thì phòng đó chỉ có một đứa, cùng lắm hai đứa ở thôi. Cứ vậy mà sống trong sau mét ấy! Bao nhiêu chuyện phiền toái xảy ra, nhất là cho cánh đàn bà con gái. Rõ là cái tư tưởn, côi được xuất khẩu là hạnh phúc quá rồi, chẳng ai xem xét đời sống tự nhiên của chúng tôi ra gì nữa! Có một người ở Đức, viết báo gọi tụi lao động như cánh bọn tôi là Thợ khách! Đúng! Thợ khách!”

Gã nhỏm dậy châm một điếu thuốc. Gương mặt ghồ ghề chợt loé trong đêm tối. Gã nhớ lại, cảm thấy như đang ngồi trong bóng tối ở toa tàu năm ấy, cảnh lần đầu tiên gã tới thăm vợ. Cách nhau có hai hai ngàn cây số, bao nhiêu thương nhớ tạo nên sự tưởng tượng của gã về đêm đầu tiên trên xứ người sẽ hưởng thụ tình vợ chồng. Gã cười thầm nhớ cặp vú của vợ. Bầu vú bên trái có cái nốt ruồi đỏ mà gã gọi là cái ti thứ ba. Mỗi lần yêu thương gã bú vào đó như đứa trẻ. Sự tưởng tượng của gã phong phú và mạnh mẽ tới mức tràn cả vào giấc mơ, khi gã gục mặt xuống chiếc bàn nhỏ, ngủ thiếp đi trong nhịp lắc nhẹ của con tàu cao tốc và, giật mình tỉnh giấc khi dương vật đã cứng đanh, làm cho khoảnh bụng phía trên căng và tức.

Cuộc gặp của chúng tôi trong ngày đầu tiên mang lại cho tôi hạnh phúc, niềm khao khát bao lâu được ấp ủ thoả mãn.

Tôi lao sầm vào vợ, không thèm khoá trái cửa. Căn phòng có ba người nữ khác cùng ở. Bon họ lập tức sơ tán. Giường nệm không rộng! Cần quái gì giường chật hay rộng! Tôi ôm chặt lấy vợ, bấu vào cô ấy. Tôi muốn tan ra, hoà vào vợ. Tất nhiên vợ cũng đáp lại tình cảm của tôi. Mắt cô ấy sáng rực, nồng nàn. Hoan hỉ lắm! Tôi không hề biết rõ là, những biểu hiện của tình yêu, tình dục thường lấn lướt, trộn lẫn, khó có thể phân biệt được. Tôi định ở lại đấy thêm một hôm, dù quá hạn sang ngày thứ hai, bất chấp khi trở về đội, sẽ bị trừ lương một ngày và cắt tiền thưởng quý.

Gã lại rít thuốc. Đôi mắt gã trong đêm tối, mỗi khi điếu thuốc hồng cháy, ánh lên những tia sáng man dại. Gã bất ngờ dụi điếu thuốc. Đầu thuốc oằn lên một cách dữ dằn trên chiếc đĩa nhỏ. Trong đầu gã hiện ra mồn một cái buổi chiều dài dằng dặc chờ vợ đi làm ca Hai trở về. Gã lang thang quanh khu nhà ở cũng chẳng rộng lắm. Nước Nga bao la, lạnh rát trong tuyết trắng. Gã mò vào một quán rượu và giết thì giờ ở đó với những vại Kờ-vát màu đen có vị hơi chua và vài li Vốt-ka thơm phức.

Mười giờ kém năm phút, gã ngừng uống và trả tiền nhanh chóng, rồi lại quay lại khu lao động Việt Nam. Mười giờ đêm, dọc hành lang loáng thoáng đám công nhân đi ca Ba và từ nhà máy hết ca Hai trở về. Gã uống hơi quá nên kéo cổ áo rét cao lên che mặt. Bỗng gã khựng lại nghe tiếng ai quen thế trong bóng tối ở góc cầu thang tầng trệt. Vợ gã? Giọng vợ gã? Những kẻ yêu nhau có thể thính hơn chó. Đúng là tiếng vợ gã, dù rất nhỏ trong góc cầu thang hẹp. Gã căng mắt ra nhìn. Trời ơi, vợ gã.

Cô ấy! Rõ ràng là vợ gã đang ngửa mặt lên đón nhận cái hôn ngấu nghiến của người đàn ông áo khoác lông ngắn to xù màu xám.

Ngay khi đó tôi giận lắm. Mãi về sau này, sống lâu hơn ở Nga, tôi mới biết là cái việc tất nhiên đến, nó sẽ đến.

Gã dừng lại. Mím môi. Điếu thuốc nhay trong miệng, lăn ra từ mép phải sang mép trái. Gã rít mạnh. Đầu thuốc cháy hồng rực trong đêm tối. Mắt nhìn như khóc. ánh sáng của ngọn đèn dầu thông trong đĩa bập bùng cháy, khi tỏ ra mờ, làm khuôn mặt gã gồ ghề hơn, đôi mắt lại càng thẳm sâu bí hiểm.

Những người đàn bà đi xứ người kiếm ăn gửi tiền về cho chồng con, đa số đều phải gá vào ai đó mà sống, mà kiếm hàng, mua bán, đổi chác lấy hàng hoá. Những thứ đang được giá ở Việt Nam. Phải gửi bọc, gửi đồ về nhà cho chồng con! Đấy là mục đích quan trọng, cần nhất của tất cả những kẻ ra đi.
Thế là “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”. Dù yêu chồng con thế nào đi nữa, thì tình cảm, một thực thể tinh thần, như một cơ thể sống, ở một vùng đất khác, thêm chất vi lượng khác, đã mọc chồi mới thay thế những ngày hôm qua và, ra hoa kết trái khác.

Tôi đã nện cho thằng cha ấy một cú trời giáng. Bất biết nó sống chết ra sao. Quay lại, tôi tóm nhanh lấy vợ tôi. Cô ấy lùi. Lùi sát vào góc cầu thang tối. Tôi từ từ tiến lại. Không thèm nói nửa lời, bạt tai vợ mấy cái liền.

Thế là chấm dứt!

Tôi chạy lên gác như một thằng điên và thu xếp khăn gói, lao ngay ra nhà ga chuyến tàu cấp tốc về Mát, từ đó quay lại đội lao động. Đêm ấy tuyết rơi suốt, trắng xóa quanh con tầu.

– Anh còn gặp chị ấy không?

– Không!

– Anh phũ phàng quá.

– Phũ phàng? – Gã nhếch mép cười – Người đàn bà tôi yêu đã phản bội.

Cô ta ích kỷ hay thời buổi khó khăn làm cô ấy không muốn có con? Tôi, hay cô ta có lỗi? Cô ta khi hoàn toàn vô sinh, đã chán tôi, hay cuộc sống nơi xư người, trong hoàn cảnh đơn chiếc đã xô đẩy buộc người ta phải lựa chọn một lối sống khác? Sự lựa chọn tất yếu là, mỗi người đàn bà phải tìm tới ai đó, nhờ cậy, nương tựa vào một người đàn ông nào đó, để mưu sống, để mà có hàng, có tiền gửi về nhà! Kinh tởm và đáng buồn quá! Sự toan tính, hoàn cảnh thúc ép như thế, tạo nên đủ các mối tính gá tạm, gắn kết bao nhiêu người đàn bà, đàn ông đã có chồng, vợ, con cái, có gia đình yên ấm ở quê nhà? Nhưng tại sao, những điều đó không xảy ra ở quê nhà, khi những người phụ nữ lên thành phố tại quê nhà chúng ta, cũng là cảnh xa quê kiếm sống, cũng là sự li quê, tha hương? Tại sao, trên các nẻo đường quê hương, mọi sự không ồn ào gá tạm như điều xảy ra với không ít đàn bà, đàn ông tại nơi đây. Thật đau đớn khi nhận ra một sự thật, khi khá nhiều người cả đàn ông lẫn đàn bà ra xứ người đã phản bội lại vợ chồng con cái ở quê hương? Tôi không hiểu nổi, tại sao ở trong nước, cũng có bao nhiêu mối quan hệ, có khi phải nương tựa vào người khác, mà người ta lại không dễ dàng phản bội gia đình như khi ra nước ngoài? Tôi không lý giải nổi. Có một nguyên nhân nào đó đã ép buộc, xô đẩy, làm người ta tan rạn và chìm nghỉm… Chán mớ đời! Nhưng giá trị văn hoá, đạo đức, truyền thống bao nhiêu năm nay, một sớm, một chiều bỗng nứt vỡ, rã nát… Không lí giải nổi, con người ta trở lên bí bách, càng đau khổ, dằn vặt và căm thù. – Gã cười gằn. Tiếng cười khô xác. Xem ra, cái thứ truyền thống ở đây bèo bọt thật, nhẹ bấc thật, chẳng còn giá trị mẹ gì.

– Anh nói tiếp đi. Càng lí giải, xem ra anh càng phũ phàng hơn! Đàn ông các anh đã rủ rê phái yếu vào cuộc chơi ấy, lợi dụng họ, sao anh không lên án phái các anh? – Quyên mạnh dạn nói.

Gã rướn người lên. Mắt buồn lắm. Gã nhìn thẳng vào đôi mắt cô, gằn giọng.

Tôi phũ phàng chó gì. Sự thật của tôi, của bao gia đình, hàng ngày chềnh ềnh trước mắt tôi. Từng ấy cô không đủ tin sao? Còn đàn ông ư? Thế cô quên mất rằng đàn ông cũng là người hay sao. Chúng toi ăn bơ, sữa, thịt đầy đủ, ứ tràn sức sống, và thiếu tình cảm của đàn bà. Thiếu lắm, cô biết không?

Tôi giấu kín sự đau khổ suốt thời gian sau đó, lang bạt làm ăn, mang theo mối hờn căm như hòn đá tảng trong lòng, không bao giờ tan với nỗi khốn nạn vì nghèo, vì không có tiền và cũng chính vì tiền mà tôi đã mất cô ấy.

Khi ấy tôi chỉ có lòng căm thù. Không thể tha thứ! Tôi là người yêu vợ, thương vợ. Sau này, đôi khi nhớ lại, thấy buồn và thù ghét. Cũng không hẳn chỉ hoàn toàn căm thù cô ta. Bởi cũng đôi khi, tôi thoáng thấy có hai người trong cô ấy, một người vợ say đắm và nồng nàn, một người phản bội, lừa dối. Vả lại, ngay khi tôi quay lại Mát thì châu Âu biến động. Nước Đức thống nhất và bao điều xảy ra trong nước Nga bấy giờ. Hàng loạt đội lao động Việt Nam tan rã. Tôi nghe nói, hình như vợ tôi cùng thằng cha hôn nó đêm ấy, thằng cha bây giờ tôi chẳng thèm nhớ mặt, biến vào xó xỉnh nào không rõ. Nước Nga mênh mông thực! Tan rã và phiêu bạt! Đấy là số kiếp dành cho chúng tôi.

Tôi bỏ đội cũ, không quay về đốn gỗ với tiền lương chẳng bao giờ có cơ hội giàu được. Phải có tiền! Tôi ở lại Mát và nhập vào đám bộ đội. Tôi làm đủ mọi nghề để sống. Bất kể việc gì, miễn là có tiền.

Dăm tháng lang thang, khốn nạn vô cùng! Tôi cũng có đồng ra đồng vào, gửi về ít tiền cho mẹ. Vài lần.

Gã lại rít thuốc. Cái bát mẻ đựng tàn đầy những đầu mẩu quăn chùn nom bẩn thỉu. Gã nhớ lại những ngày trôi nổi, khi thì tiền như nước chảy vào túi và lại ào ào mất đi. Gã nhớ tới cái bữa mồ hôi nhễ nhại giải phóng năm sáu xe hàng. Vừa quệt mồ hôi ngẩng lên thì bắt gặp khuôn mặt quen thuộc ngày nào. Người vợ của gã không hề biết, cái thằng bốc vác quần áo lấm lem, bẩn thỉu, ngồi hút thuốc giữa đống hàng ngồn ngộn kia lại là gã. Mùi nước hoa Chanel 5 bay quẩn theo gió thốc vào gã, cuốn theo bước chân một người đàn bà nom sang trọng, đi sóng đôi bên một đại gia chuyên đánh hàng xuyên lục địa giá trị hàng triệu USD, mà chính gã là kẻ làm thuê thảm hại cho họ…

Gã nhớ lại bữa rượu buồn thiu chẳng nói được lời nào, tràn ngập chán chường, ăm ắp cảm giác bị xúc phạm, nhục nhã. Tự cảm thấy bị tổn thương ghê gớm, tới muốn tự tử trước cuộc gặp trớ trêu này của gã. Hôm sau, người ta không thấy “thằng bốc vác có sức khoẻ kinh hồn”, có thể hất kiện hàng một tạ từ mặt đất lên vai một cách ngon lành nữa. Đấy là lý do gã lại trôi dạt, rồi tới tận nơi thâm sơn cùng cốc này, với tư cách như một đầu lĩnh phường thảo khấu, nắm giữ một đường dây xuyên biên giới, để kiếm thực nhiều tiền, thoát khỏi nỗi nhục, không chỉ là cơm áo.

Buổi sớm hôm sau, gã dắng, sẽ đi vắng hai ngày. Nói vậy, nhưng nửa đêm gã đột ngột trở về. Khi ăn cơm, gã nhẩn nha nói với Quyên rằng, cô không thể ở trong rừng được nữa! Gã muốn đưa Quyên về thành phố nơi có những bệnh viện sản hiện đại, giúp cho việc sinh nở của Quyên an toàn, bảo đảm. “Người ta không thể sinh nở trong rừng như bọn mọi rợ!” Gã tỏ ra khá hiểu biết khi nói: “Đàn bà vượt cạn con so cực kì nguy hiểm”. Gã nhìn đăm đăm vào mắt Quyên: “Tôi xin chịu trách nhiệm toàn bộ về những điều xảy ra với em. Xin hãy tin tôi!”

Tình huống không ngờ chuyển nhanh tới như vậy. Quyên có thể sẽ thoát khỏi tay gã. Cô sắp được tự do?

Cả ngày sau cô rơi vào tình trạng như người mộng du. Vậy là điều cô mong chờ, mơ ước, khát khao đã tới. Cô chợt nảy ra ý nghĩ, tại sao cô không đi sang bên kia biên giới tìm chồng. Cô cứ đắn đo mãi, tự hỏi bao nhiêu lượt, liệu anh ấy có tha thứ cho cái thai này không? Không, anh ấy sẽ hiểu và chấp nhận, một khi anh ấy biết là chưa khi nào cô yêu gã, bố cái thai nhi bất đắc dĩ. Cô phải đi tìm chồng! Cô không có một chút tình cảm với bất kì ai, ngoài chồng. Mọi sự xảy ra với cô chỉ là ác mộng.

Buổi tối, gã nằm bên Quyên, tay trái luồn dưới cổ vòng lên ôm đầu cô, cho cô gối lên bắp tay rắn chắc của gã. Tay phải đặt nhẹ lên bụng cô, nơi có tiếng trái tim thứ ba đập trong ngôi nhà luôn tĩnh lặng. Gã thủ thỉ:

– Tôi yêu em. Yêu thật, yêu lắm. Tôi thề! Cái thai này của tôi. Ngày còn ở Việt Nam, nghe người ta bào, những người chồng áp tai vào bụng vợ nghe được tiếng tim con mình, sướng lắm. Ngày xưa tôi ao ước như vậy với chính con người đã phản bội tôi, mà chẳng bao giờ nghe được một tiếng binh binh nho nhỏ, âm âm hạnh phúc. Bây giờ tôi biết hạnh phúc của người đàn ông là có thật. Tôi muốn em làm vợ tôi! Chúng ta phải làm lại từ đầu.

– Không! – Quyên xoay người lại nhìn thẳng vào mắt gã. – Em không đi đâu cả!

– Em không ở đây được. Đứa trẻ sẽ làm khai sinh. Nó phải được sinh ra ở bệnh viện, chứ không phải xó rừng này. Nó cần có một người bố, Tôi sẽ cưới em. Tôi là bố nó.

– Anh có yêu em thực không? – Quyên nói.

Gã nhỏm dậy. ánh mắt tha thiết, nhìn thẳng vào mắt Quyên, giọng run run

– Tôi yêu em. Yêu thật!

– Anh hãy để em đi tìm chồng!

– Ai? Tìm ai? – Gã nhỏm phắt dậy, mắt trừng trừng nhìn xoáy thẳng vào mắt Quyên trong đêm tối.

Quyên muốn khóc. Nhưng cô không nên khóc bây giờ. Cô phải nói thực với gã. “Sự chân thành cảm hoá được cả quỷ và thần”. Ngày nào khi còn ở Việt Nam, một người quen biết mẹ cô, đã từng có lần nói như vậy. Cô tin ở điều đó. Con người này, gã, theo cô, hôm nay, trong đêm nay, không bị phần ác thú ngự trị. Quyên trở mình, nhẹ nhàng nói:

– Anh hãy cho em sang Đức tìm chồng. Anh ấy rất yêu em. Chúng em yêu nhau đã hơn ba năm và khi xa nhau, tuần nào anh ấy cũng điện về. Thậm chí hai, ba ngày một lần, có khi chỉ để nói một câu ngắn. Anh đừng nghĩ anh ấy vì cái thai này mà không còn yêu em nữa. Không một người đàn ông chân chính nào lại sỉ nhục vợ mình, ruồng bỏ vợ, khi biết vợ mình bị cưỡng bức. Anh ấy học ở Nga, tiến sĩ, là trí thức. Anh hiểu không? Em xin lỗi, vì em muốn nói thật, phải nói thật với anh về tình yêu của chồng em!

Gã bần thần. Khuôn mặt như thộn ra. Ngạc nhiên. Cau mày. Mắt mở thao láo, đau đớn, trân trân nhìn lên nóc nhà. Thao thức.

Họ im lặng bên nhau tới hai tiếng. Gian nhà yên ắng tới lạ thường. Những ngọn gió cũng dường như không thổi nữa. Những tiếng tru của bầy sói hoang cũng không vọng về. Không gian chợt trở nên tĩnh lặng tới tuyệt đối, như không hề có rừng, có tuyết và bão gió. Họ như đang ngự trên một cõi nào đó an nhiên tới tuyệt đối. Cõi ấy, cho tâm hồn tĩnh yên nhất, để người ta có thể có cơ hội, điều kiện nhận rõ chính mình. Nhận ra chính mình, điều ấy có thể dẫn tới sự giác ngộ không chỉ vượt qua bản năng mà còn vươn ra khỏi cá nhân họ, chứ không chỉ cho hai người trong gian phòng cô quạnh giữa rừng khuya đêm nay.

Người đàn bà này thực có một tình yêu và niềm tin ghê gớm với chồng.

Cái số kiếp mình cho chết quá đi thôi. ồ, hoá ra cái thằng cha bữa ấy là chồng cô ta, thế mà bấy nay gã cứ đinh ninh rằng, họ chỉ là một cặp tình nhân. Gã cảm thấy ghen với cái thằng cha vớ vẩn nào đó đã bước chân xuống cái phao đi trước, để vợ ở lại đi chuyến sau. Một thằng đàn ông, một thằng chồng như vậy, liệu có thực tử tế không? Nếu là gã, không bao giờ gã cam chịu như vậy! Phải bằng mọi cách ở lại, hay quay lại. Thế mà cô ta lại tin tưởng như tuyệt đối vào tình yêu của một kẻ như thằng ấy? Nhưng rõ ràng, người có thân xác tuyệt vời để gã đam mê này, đã có một lòng tin và tình yêu thật trong sáng và đẹp đẽ. Cô ta không như vợ gã và cả chính gã. Trời ơi, cô ta không chỉ đẹp về mặt hình thức. Vẻ đẹp bên trong của cô, mà đêm nay gã nhận ra, thực sự làm gã vừa đau đớn vừa xúc động. Gã đã có lần nghe thấy, ở đâu đó, có ai từng nói: “Cái đẹp là cái làm người ta xúc động!” Gã ước ao, đời sống của gã, một kiếp đàn ông như gã, có một người ở bên với tình yêu và lòng tin như của Quyên! Được người như Quyên để lấy, để yêu và gã sẽ được yêu trọn vẹn. Suốt đời!

Giam cầm cô ấy hơn tám tháng rồi, nhưng mà mãi gã không thể chiếm đoạt được tâm hồn cô ấy, người đã có con với gã, con người tuyệt vời này! Không thể! Đau đơn thế! Gã biết…

Gã quàng tay nhẹ nhàng ôm lấy thân hình ấm nóng, mềm mại của Quyên. Nhẹ nhàng choàng tay ôm cái bụng đầy lên, nơi có một sinh linh mang huyết thống của gã. ừ, gã quyết định! Gã buồn thế! Sao số phận không cho gã được gặp Quyên sớm hơn? Lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm lưu lạc, đôi mắt ráo hoảnh, bấy nay thường khô cằn như sa mạc, phút giây này bỗng nhiên ứa lệ.

Nước mắt chảy từ từ khỏi hốc mắt sâu, lăn qua gò má, chậm rãi chảy cả vào miệng. Mặn, đắng, đau đớn. Nước mắt ấy, gã biết, nó có cả biết bao thương yêu muốn dành cho Quyên! Và, chỉ mình gã tự biết, vì sao gã khóc!

Năm ấy mùa đông tới sớm.

Quyên và gã tới đường biên vào lúc gần sáng. Tuyết lất phất rơi, rồi rơi nhanh hơn. Tuyết rơi có lúc dày đặc, làm cả trời trắng phó, cản tầm nhìn suốt đêm. Theo gã, đây là thời cơ tốt nhất để vượt sang bên kia biên giới. “Người Đức rất kỷ luật, nhưng ai mà chống lại giấc ngủ vào thời điểm này được? Có cố căng mắt ra thì khả năng quan sát cũng không thể nhìn xa hơi năm, sáu mét! Đêm nay trời giúp ta!” Gã ôm lấy vai Quyên, ghé sát vào tai cô, nói vậy.

Quyên lầm lũi bước theo gã. Gã luôn chờ cô, dáng điệu vẫn kiên quyết, dù đôi mắt thăm thẳm buồn, Ai chả buồn khi tiễn biệt! Quyên có buồn không?

Đêm qua, gần sáng, cô chợt nhớ lại tám tháng trời ăn ở tại khu rừng này. Một ngày còn có nghĩa nữa là… Cô vừa giận vừa thương gã. Đêm ấy, gã đã quyết định, đồng ý để cô đi tìm chồng. Rõ ràng gã đau khổ suốt hai ba ngày đêm. Điều đó gã không nói ra, nhưng đôi mắt khi còn biết yêu của gã không thể lừa dối, che giấu được Quyên. Quyên tin rằng, gã đã yêu cô thật lòng. Gã, người đàn ông đủ đen và trắng, khốn nạn lẫn tử tế. Gã, người bắt và hiếp cô, từng coi cô như vật nuôi. Rồi gã yêu cô và dù muốn sở hữu cô, sở hữu đứa trẻ, lại hứa sẽ tự thân dẫn cô qua biên giới để cô đi tìm chồng. Tại sao lại thế? Quyên không hiểu được. Quyên cũng thấy thoáng buồn, không cầm lòng được, khi chiều qua, gã mời cô dạo quanh căn nhà. Họ cùng bước trên những thảm lá khô giòn, xào xạc mà cơn gió đêm qua đã làm đám cây quanh nhà trút hết những chiếc lá cuối cùng của mùa qua sót lại xuống thảm rừng. Khi ấy, mặt đất như thể vừa được trải tấm thảm dài, trong nắng chiều ngời lên, như dát vàng rực rỡ, dưới từng bước chân của họ. Dường như cuộc dạo chơi đầu tiên và cuối cùng ấy trong suốt tám tháng gã giam cầm cô ở nơi đây, là gã muốn cô nhớ lại chút ít thôi về gã. Quay lại cửa nhà, gã cầm tay cô, nhìn vào mắt cô đăm đăm không nói rất lâu, rồi bỗng quỳ sụp xuống chân và áp đầu vào bụng cô. Hình như gã âm thầm khóc. Quyên đứng im phăng phắc. Cô cũng cảm nhận được điều gì đang âm thầm chảy trong gã. Bất giác, Quyên chợt thấy nhói đau. Cô đưa tay lên, ôm lấy đầu gã. Đôi bàn tay mềm mại, nhỏ nhắn của cô vuốt nhẹ lên mái tóc đen rậm và cô không dám cất lên lời. Bởi thực ra, mọi lời lẽ, nếu có cất lên khi ấy, cô tự thấy đều giả dối và vô nghĩa. Mà cô lại thuộc loại người không bao giờ muốn nói dối, dù chỉ là nửa lời.

Kế hoạch gã vạch ra được thực hiện đúng tới từng chi tiết.

Đã vượt qua biên giới

Đã tới ngôi nhà nhỏ lúc ba giờ sáng.

Ba giờ rưỡi, từ đó họ lên hai chiếc xe, xe BMV gồm gã và Quyên đi đầu. Chiếc Opel đi sau, chở ba người khác. “Phải hoà vào dòng xe trên xa lộ, tiến về Berlin, vào thời điểm đông xe nhất!” Quyên chẳng thấy hồi hộp, xốn xang khi vượt qua biên giới như ngày nào nữa. Cô chỉ có niềm mong mỏi duy nhất: sao cho hơn chục tiếng nữa trôi nhanh, cô sẽ tới Muenchen gặp chồng ở cái trại tị nạn mà gã và đồng bon, những kẻ giang hồ, thảo khấu có tai mắt ở khắp mọi nơi, biết chắc chắn rằng, chồng cô còn trong đó.

Họ chuẩn bị vượt lên xa lộ. Những khu rừng thông đen thẫm vun vút về sau xe. Chiếc BMV đột ngột phanh gấp. Xe dừng lại trên một khúc quanh. Con thú đã đánh hơi thấy con thú khác lớn hơn rình mình! Gã mím môi, yên lặng.

Chiếc xe cảnh sát dễ nhận ra với hàng chữ Polizei to đậm, hai vệt kẻ màu xanh biết, nằm ở bên đường, dưới bóng hàng thông thẳng tắp, đã nhìn thấy gã. Gã hiểu, nếu chiếc BMV quay đầu lại, xe cảnh sát kia sẽ lập tức đuổi theo ngay. Xe nó là xe thửa. Mình có thể chạy nhanh chả kém nhưng có lẽ không thoát nếu nó gọi trực thăng tới. Vả lại còn cái Opel, máy kém nó một chấm, chắc chắn bị tóm sống. Nghĩ đã.

Gã bình tĩnh xuống xe, mở nắm ca-pol, như vẻ xem xét máy móc, rồi châm một điếu thiếu. Gã không nhìn Quyên, lạnh lùng nói: “Em cúi người xuống. Mở cửa xe bên phải và sang xe sau đi. Nhanh!” Quyên nhìn gã đắn đo vài giây. “Chần chừ gì nữa. Nhanh lên!” Gã vẫn không thèm nhìn Quyên, gằn giọng.
Quyên mở cánh cửa xe, hành động như một cái máy theo lời gã. Cô hiểu, chiếc Opel phía sau chưa bị phát hiện, bởi nó nằm trên đoạn cong khuất. Người lái chiếc xe sau lập tức lùi sát vào lõm rừng ven đường, khi cô đã ngồi gọn vào hàng ghế sau. Cô báo với người thanh niên lái chiếc xe thứ hai rằng, xe cảnh sát đang chờ phía trước. Vài phút sau chiếc xe BMV bỗng vọt lên như tên bắn và vượt qua chiếc xe Polozei đứng chặn đường lên xa lộ…

Nửa giờ sau, chiếc Opel chở Quyên đã hoà vào dòng xe cuồn cuộn trên xa lộ về hướng Berlin Radio tự động bắt sóng ngắn liên tục, báo thông tin giao thông, làm bản nhạc đang nghe liên tục bị cắt đoạn. “Họ đang phát tin về chúng ta!” “Cái gì?” Quyên nhỏm người lên hỏi. Người lái trẻ giọng thanh thản: “Anh Hùng bị rồi!”. “Cái gì?” Quyên hỏi lại.

Mãi tới tám tiếng sau đó, ở một trạm xăng, khi họ ăn chiều, Quyên mới nhìn thấy tấm ảnh chiếc xe của gã bẹp rúm, nát nhừ trên tờ Tin chiều. Cô nhờ người bạn trẻ của gã cầm lái chiếc Opel dịch nội dung bài báo ngắn. Thì ra, người ta phát hiện và truy bắt chiếc ô tô “chạy trốn” với tốc độ hơn trăm năm chục cây số giờ. Chiếc xe gã cầm lái lật nhào, lăn tới hơn mười mấy vòng ở đoạn cua sát biên giới. Theo tin cảnh sát, họ đã cấp cứu một người đàn ông độ tuổi trên ba mươi, trong trạng thái bị thương nặng, hôn mê. Người ta dự đoán, kẻ bị nạn, khi “chạy trốn” cảnh sát, là người Việt Nam. Cảnh sát đã tìm thấy giấy tờ có ghi tên anh ta: Nguyen Van Hung.

Quyên im lặng, cô không thể khóc. Cô ngồi như hoá đá trên chiếc ghế. Bàn tay mềm mại trắng hồng của cô bóp vụn từng mảnh bánh mì, rồi thả xuống lòng đĩa ăn. Cô thả một mẩu bánh vào cốc sữa uống dở. Mẩu bánh nhỏ chìm xuống, nở rồi rữa dần ra. Cô bỗng thoắt nhớ lại tất cả hành trình của cô một năm qua. Nhớ đêm tại Mát với bao dự định, hy vọng của chồng cô, để cô tin vào mà nghe theo chồng, không quay về Việt Nam, tiến về phía Tây. Cô nhớ cái thùng xe tải đông lạnh mà cô và chồng đã nằm yên, nín thở, như các ướp bên nhau, vượt qua biên giới hai nước. Cô nhớ mùi hăm khẳm từ chính cô, sau hơn một tuần không có nước rửa, trong tầng hầm ngôi nhà mà cô cũng chẳng biết đó là ở đâu trên bản đồ. Khuôn mặt của gã – Hùng – hiện lên sau cùng, lẫn trông ngôi nhà gỗ, trên khu rừng cô đã bị giam cầm, từ mùa lạnh đầu năm tới khi chúng trút những chiếc lá vàng và sẫm đỏ như máu. Rồi câu chuyện của gã, câu chuyện của con người cô từng căm thù… Cô tưởng tượng ra gã nằm trong chiếc xe bẹp. Chiếc băng ca nhao tới, cáng khỏi xe một thân hình đẫm máu…

“Cầu cho anh tai qua nạn khỏi!” Cô thành tâm run rẩy thốt lên, dù rất nhỏ mà chỉ mình cô nghe thấy.

Mắt Quyên chỉ ứa ra một giọt nước mắt, nhưng vẻ mặt lại đau đớn vô vàn.

Người lái xe trẻ để yên cho cô ở trạng thái như vậy. Những kẻ tha hương ở một khoảnh khắc nào đó, bỗng có những hành vi khó thể lí giải, theo những logic thông thường. Cậu ta quay sang, nắm lấy bàn tay Quyên: “Chị ơi!”

Cái thai bỗng đụng cựa và đạp rất mạnh làm cô đau nhói. Quyên lấy giấy ăn chấm đôi mắt và nhìn ra qua cửa kính tiệm ăn trong suốt.

Khi ấy có ngọn gió từ đâu thốc về… Gió cuốn tung toé bụi và cát, những chiếc lá khô vàng ươm bay chấp chới, tựa như rất nhiều cánh bướm hỗn loạn. Vài giây sau, gió lặng dần và từ thăm thẳm trên cao, tuyết bắt đầu lãng đãng rơi, mỗi lúc một dầy hơn, để mặt đất, con đường ngoài kia, trong mắt Quyên, bỗng phút chốc biến thành một dải khăn trắng muốt chạy dài miên man, vô tận…

Trại tị nạn Goldbeg nằm ven khu rừng thông xanh đen phía Nam ngoại ô thành phố. Đầu mùa hè, chỉ sau vài cơn mưa, trên mảnh đất hoang sau trại mọc lên cơ man từng đám rau muối, rau dền xanh um. Sang thu, đám đất sát rừng này đầy những vạt hoa cúc dại li ti chín rộ. Trong ráng chiều, đám hoa rực lên màu vàng hoang dã.

Những người Việt trong khu trại hay ra bãi đất ấy hái rau dại về nấu. Rau hai cả mùa hè, hái trụi, thế mà tuần sau chúng lại mọc xanh um. Bà lao công của trại, Frau Graumann là nhân viên đã về hưu, kí hợp đồng làm thêm. Gần bảy mươi rồi, bà vẫn muốn có công việc làm vui. Frau Graumann đẫy đà, nom như cái tàu lu. Được cái khuôn mặt đẹp phúc hậu. Bà không hiểu vì sao món súp đậu Holand của nhà ăn nhiều khi thừa cả nửa nồi lớn mà đám người châu á kia vẫn cứ mang thứ cỏ dại ấy về nấu, luộc, xào với tỏi chén xì xụp. Điều đó cũng như nhiều việc khác mà họ làm, gây cho bà, ngày sang ngày, hết ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Tỉ như sau lễ Noel một tháng, họ đốt cái gì trông như cái que. Những thứ que cháy chập chờn trong gió rất lâu tàn, hăng hắc toả mùi, Họ sì sụp lạy cả con gà sống đã luộc chín. Chú gà nguyên cả đầu, cánh và, đôi chân toàn da khẳng khiu. Bà là người phía Tây, nên cho rằng ở Việt Nam vẫn còn chiến tranh, vì thế bọn họ mới sang tị nạn ở Đức.

Mỗi khi thấy có ai ra hái đám rau ấy Frau Graumann thường làm dấu thánh.

Làn sóng tị nạn tràn vào nước Đức, sau khi bức tường Berlin sập đổ, đẩy nhiều Tiểu bang Tây Đức vào tình trạng thiếu nhà ở cho hàng chục ngàn kẻ tị nạn. Để số người đủ sắc tộc không tập trung quá đông, làm xáo trộn những khu dân cư, vốn nề nếp và yên tĩnh, Sở quản lí ngoại kiều Tiểu bang cho chở về bãi bìa rừng Goldberg, có đến trăm thùng container, mỗi cái rộng hơn hai chục mét vuông. Máy móc và thợ chuyên nghiệp kéo tới cắt, đục, hàn xì… loé sáng suốt ngày đêm. Họ ghép, chồng container, rồi liên kết chúng lại để tạo thành năm khu nhà hai tầng. Tầng trên, có hai dãy phòng ở cho trại viên, giữa có lối đi chung. Tầng triệt, nử để ở, một nửa số phòng làm nhà ăn, nhà bếp chung và phòng tắm giặt. Nhìn phơn phớt, khó ăn biết những căn phòng cho bốn năm người sống bằng tôn, vì chúng được dán giấy giải gỗ trên các vách, tràn được đóng gỗ ép sơn trắng. Mọi phòng ở đều không có ban – công nhưng trổ cửa sổ cho mùa hè đỡ nóng, lại có đặt hệ thống nước sưởi cho mùa đông. Nom ra, kể cũng giông giống một căn phòng bình thường. Châu Âu ôn đới, thời khí ít khi oi nực, nhiều tháng lạnh, có tháng băng tuyết rơi ngập đất, nên sống trông một hộp kẽm như thế cũng tạm được, còn hơi bọn Obdachlose phải ngủ trong các thùng giấy, hứng chịu giá buốt tê tái của mùa đông, hoặc trên xe mooc không toilet, thiếu nước và, những tấm thảm sực lên độc mùi chó hoang…

Khu trại được Phòng xã hội thành phố trả tiền điện, nước, lò sưởi, vệ sinh, tiền đổ rác, vì thế đời sống đạm tị nạn tất nhiên khá hơn số người bản xứ, không công ăn việc làm, sống trong những khu chung cư, cái gì cũng phải móc tiền túi ra trả. Tồi tệ nhất có lẽ là hành lang bằng tấm tôn kẽm container, không trải thảm. Động có bước chân người là nó kêu váng lên như có ai cầm dùi mà gõ. Cách đây không lâu, người ta trồng một loạt dây hồng leo bên hàng rào gỗ thông xám đen. Đám hồng được đất, lớn như thổi, quấn dày trên các thanh gỗ, trổ từng chùm hoa rực rỡ, dần tạo thành “bức
tường hồng” chói chang, đập vào mắt người qua lại. Điều này làm không ít người dân thị trấn hài lòng, vì bức rào hoa đã xoá đi màu hàng rào xám xịt làm khu trại hộp kẽm bớt vẻ u tàn, bí ẩn.

Chiếc Opel chở Quyên dừng lại cửa trại Golderg. Gã thanh niên, tên Minh, đệ tử ruột của Hùng mở cửa giúp Quyên bước xuống xe. Gã chỉ vào khu nhà sau rặng hồng bảo: “Bà chị vào nhà giữa, lên cầu thang có cái cửa sơn xanh kia. Cuối hành lang phòng số mười sáu, tầng hai. Ông xã chị ở đó! Em phải quay về gấp, xem đại ca Hùng tai nạn ra sao.

Trăng neo trên đỉnh những vòm thông sũng nước, ủ rũ. Sánh lạnh.

Đèn đêm hắt xuống đường từng quầng vàng nhợt.

Sương bắt đầu lan ra bảng lảng như khói mỏng, chập chờn làm người ta liên tưởng, cảm giác như có chiếc khăn voan màu xám lửng lơ bay quẩn trên nóc nhà. Mái nhà tôn hấp hơi ẩm, anh ánh trong đêm trăng.

Quyên thấy ớn lạnh. Cô tới gàn bên gã thanh niên, người đã đưa cô tới nơi tới chốn, nói: “Cậu về, phóng chậm thôi nhé!”

Vài giây sau, chiếc Opel quay đầu vọt lên đường Autobahn.

“Rồi cậu ta sẽ thông tin cho mình tình hình của Hùng!” – Quyên nhủ thầm. Cô đứng yên phăng phắc dõi theo chiếc xe đang khuất nhanh và hốt nhiên cảm
giác cô độc ập đến, khi nhìn rõ, trong đêm đen, đuôi xe có hai chấm đèn đo đỏ loé lên đột ngột , rồi tắt phụt như tan vào sương đục. Cô rùng mình.

Trong đầu cô loé vụt, hiện cảnh chiếc xe BMV của Hùng văng trượt dài trên đường cua, cắt chéo dải phân cách, đèn phanh cũng đỏ chói. Nó lộn nhào và
nẩy lên trên dốc ta-luy, hệt như mảnh sành thia lia trên mặt nước và, đôi chân Hùng giập nát, nhầy nhụa máu.

Cái thai bỗng đạp đánh thách một cái, làm Quyên bừng tỉnh. Quyên lắc nhẹ đầu. Mái tóc cô xổ ra ôm xoà lấy bờ vai. Cô hít một hơi sâu, rồi bước trên
đường lát đá nhỏ, men dọc hàng rào, nhằm hướng ngôi nhà có chiếc cửa sơn xanh. “Tầng hai, phòng cuối cùng, bên trái”, cô lẩm nhẩm.

Phần 3

Kumar là dân Srri Lanka tới trại tị nạn Golderg đã lâu.

Trong trại. Kumar là người duy nhất có thể nói được mấy thứ tiếng. Tất nhiên tiếng mẹ đẻ chẳng mấy khi được đụng tới, trừ khi, thi thoảng lắm, có
vài người bạn đồng hương của anh từ Hamburg tới thăm.

Kumar nói tiếng Đức khá thạo. Anh vừa tới trại, đã xin vào học ngay khoá tiếng Đức hai năm dành cho người nước ngoài. Kumar đã nắm vững tiếng Anh
từ trong nước, nên học tiếng Đức nhanh.

Kumar nói tiếng Anh hay tới mức khiến nhiều người Đức cũng phải khâm phục. Tay bác sĩ Mueler, phụ trách thăm khám vệ sinh khu trại, kẻ hay là cà
tán phét với trại viên, có lần bảo, Kumar, cậu nói tiếng Anh hay hơn cả bà giáo Reny dạy tớ hồi trung học! Điều ấy dễ hiểu, nếu ai quan tâm tới
lịch sử Sri Lanka trước kia, hẳn biết mảnh đất ấy lệ thuộc vào Anh bao nhiêu năm trời!

Đến trại Goldberg, anh chung sống với những người Việt. Thấy Kumar lành, cởi mở, lại tha thiết bày tỏ muốn học tiếng Việt Nam, một người nguyên xưa
là giáo viên văn đã dạy anh nói tiếng Việt. Kumar lại học tiếng Việt rất nhanh và sau dăm năm ở trại tị nạn, anh có thể hiểu những câu ngạn ngữ,
nói được những từ đại loại như hết sảy hoặc những từ lắt léo, nói lái từ tiếng Anh, ví như ô kê là con gà đen! Ngoài ra, khi vui, anh còn hát vài
bài tiếng Pháp. “Dạo ở Algérie, tớ trọ trongg một tầng hầm. Có một chiếc máy hát và một đống đĩa hát cũ. Tớ bỏ Algérie, tới Pháp, sang Bỉ, Tây Ban
Nha, rồi quay lại Pháp và cuối cùng về đây… Tớ từng làm thợ hồ, thợ xẻ gỗ, thợ lò mổ và từng chạy xe đạp phát quảng cáo trên đường phố. Nửa năm ở
Nam Pháp, tớ còn làm mục đồng, chăn súc vật và sau đó đi trồng nho nhỏ ở một trang trại”. Kumar kể về anh như vậy.

Một lần, ở trại có đám giỗ mẹ của một người Việt. Người kia mời Kumar. Không biết làm thế nào mà Kumar cũng biết phong tục Việt? Anh tìm tới cửa
hàng châu á , mua một thẻ hương và hoa quả, lại phong bì 50 D.mark. Những người tha hương sống ở nơi thừa mứa rượu, song chả mấy khi có dịp, có cớ
uống rượu vui với nhau cho thậm say. Uống! Uống để quên đi những lo lắng, bồn chồn, cô quạnh nơi xứ người! Nay có giỗ chạp, kẻ chỉ uống được ít,
cũng tự nhiên liều mình uống thêm vài li nhỏ. Những li rượu vui và buồn! Kumar thường ngày uống cũng được! Nhưng rượu chứ đâu phải nước lã, tới
chén tống thứ bảy anh cũng lơ mơ. Anh đen cháy, đi lại ngất ngưởng, nom buồn cười lắm! Tới hồi khuya, Kumar ngồi bệt xuống góc tường và đột nhiên
cất tiếng hát.

Những kẻ li quê, nghe thấy một bài ca lạ, giai điệu thật buồn. Không ai hiểu bài hát nói gì, nhưng rõ ràng, ai cũng nhận ra, mắt Kumar khi ấy cũng
buồn thăm thẳm như điệu hát. Cho tới vài ngày sau, có kẻ gặng hỏi, anh mới kể: “Đây là bài hát về những cánh rừng và thảo nguyên quê tôi. Rồi anh
trầm xuống kể: “Gia đình tôi thuộc dòng họ Sinnatuerrai. Đó là một dòng họ lớn ở vùng quê tôi. Nhà tôi có hai ba cánh rừng, mấy đồng cỏ ruộng. Dê
thì nhiều lắm!” Nội chiến xảy ra. Cha Kumar bị đạn lạc, chết tươi ngay ở sân nhà. Kumar theo mẹ và hai chị chạy loạn, hết khu trại này tới cánh
rừng khác. Họ để mặc gia súc không ai chăn thả. Từng đàn gia súc lần lượt lần lượt trở thành thực phẩm miễn phí cho các toán phiến quân, cả những
đám người chạy loạn.

Mẹ không muốn Kumar, đứa con trai duy nhất của dòng tộc Sinnatuerrai chết trong cuộc chiến nồi da xáo thịt, nhân có chuyến mộ thợ hồ sang Algérie,
đã chạy vạy đưa Kumar lên tàu biển. Quàng vào cổ Kumar sợi dây đeo bức tượng Phật bằng đồng đen tuyền, linh cảm sẽ xa con biền biệt, bà nói: “Cầu
Đức Phật, phù hộ cho con may mắn!” Kumar đôi khi vẫn nhớ lại, khi con tàu rúc còi rời bến, anh cảm thấy rõ, buồn ơi là buồn. Bóng mẹ và vài người
thân của gia đình anh nhoà dần, nhoà dần rồi mất hút trong giải xanh chạy miên man dọc bờ. Anh không khóc. Người như Kumar chẳng khóc. Nhưng quả
thật khi ấy lòng anh như có ai lấy dao đâm chọc liên tiếp.

Bao năm xa quê, qua nhiều nước, biết được đủ mọi hình thái sống, hành trang được thay thế vài lần, Kumar cũng nhớ nhớ, quên quên nhiều chuyện,
nhưng tượng Phật nhỏ luôn trên cổ anh. Chỉ khi làm ở tiệm Pizza, nơi không khí tràn ngập toàn mùi đồ ăn, thức uống, sợ tượng Phật ô uế, anh mới
tháo ra đặt lên nóc tủ.

Kumar rời nước Pháp chạy sang Đức khi bức tường Berlin vừa sập. Anh nói, hết hạn hợp đồng thợ nề, lang thang mãi chẳng nơi nào dung thân, nước tớ
lại tiếp tục rộ lên nội chiến. Té thôi! Kumar nháy mắt, rồi cười. Da mặt anh đen sẫm như than, nhoà lẫn vào bóng tối, nhưng đôi mắt như luôn ẩn
tàng, thoáng hiện thứ ánh sáng mơ hồ, xa xăm và đôi môi hệt có vệt son ánh lên! Nét châu á trên khuôn mặt anh rất dễ nhận ra, nhưng nước da của anh
thì thực đen tuyền như người châu Phi. Nếu nghe anh nói tiếng Anh, Pháp, mà không để người nghe nhìn mặt, thì ngỡ Kumar là người Âu. Hàng ngày, dẫu
bận tới mấy, anh vẫn dành thời gian sớm hay tối, ngồi yên trước pho tượng nhỏ. Có hỏi, mày cầu xin gì đó? Anh chỉ cười, nhô hàm răng đều trắng xoá.
Kumar không xin gì cả! Anh chỉ muốn bình yên, bởi anh tin lời mẹ dặn: “Trước Đức Phật, người ta chỉ có thể tìm sự bình yên!” Khi có người bạn đồng
hương nào đến, anh nấu cơm kiểu như luộc gạo. Gạo sậm sựt thì cũng cạn nước. Bớt lửa, để một tẹo, nghe chừng chín tới, anh đổ cơm ngay ra đĩa cho
nguội. Xem họ ăn bốc, hoặc ở bên ngoài phòng, lắng nghe họ nói chuyện, ta thấy một âm thanh bột rộn chồng chéo, lúi ríu như có một đàn chim lao xao
trong khu rừng đại ngàn và, hiểu: anh đúng là người Sri Lanka.

Rõ ràng, từng ấy cũng chứng tỏ Kumar là tay “giang hồ thứ thiệt”.

Sau mấy lần thẩm vấn, xem xét, Sở ngoại kiều thành phố đã cấp giấy Cư trú vô thời hạn, mà anh chưa thuê nhà riêng. Không phải Kumar không muốn có
một nơi ở tốt hơn, tự do hơn. Anh quá ít thời gian để tìm một chỗ ở ưng ý. Vả lại, việc ở trại cũng giúp anh tiết kiệm hai trăm D.mark một tháng.
Ai cũng biết, Kumar rất chăm gửi tiền về cho mẹ. Anh từng nói, ai chứ mẹ tớ tiết kiệm lắm, tớ chẳng thể quên những ngày chị và mẹ tớ toàn húp cháo,
chạy đạn bom trong rừng… Thương lắm!

Kumar đi đưa Pizza từ 9 giờ sáng tới tối mịt. Thường là gần nửa đêm, anh mới kết thúc công việc, trở về trại bằng chiếc xe mô – tô thùng vuông màu
trắng, có dòng quảng cáo màu da cam: “Pizza tươi!”

Như mọi làn, đêm nay về tới trại, anh tắt máy từ xa, cho xe trôi không một tiếng động. Tới sát bờ rào, sau rặng hồng đang còn những đoá hoa cuối
vụ, anh khoá xe lại. Ngẩng mặt lên, anh chợt nhìn thấy một người đang loạng choạng như muốn ngã, tay quơ ra như muốn bám lấy đám hồng leo trên rào.
Kumar bước nhanh tới, nhận ra trong bóng đêm nhập nhoạng, một người đàn bà có cái bụng kềnh càng. “Chị làm sao thế?” Kumar hỏi bằng tiếng Đức.
Người đàn bà giật mình, quay ra nhìn về phía Kumar.

Bây giờ trăng vừa vượt qua đám mây, vằng vặc sáng. Kumar nhìn rõ hơn khuôn mặt người đàn bà trẻ đang nhìn sang phía anh. Anh cảm giác, đó là một
người Việt.

Đúng! Người ấy là Quyên.

Cái thai trước giây phút gặp Kumar vừa đạp thêm một cú khá mạnh, làm cô giật thột, đau quặn tới mức chỉ muốn gục xuống.

Sao một người Việt Nam lạ mặt lại tới trại khuya vậy? Kumar nghĩ và lập tức bật ra một câu tiếng Việt:

– Em ơi? Có cần anh giúp đỡ không?

Trong ánh trăng bàng bạc, Quyên thấy một người da đen hơn cả bóng đêm. Mắt Kumar đựng tràn ánh trăng, nổi lên như hai điểm sáng giữa màn đêm nhập
nhoà. Kumar lại bất chợt cười. Gã phô hàm răng trắng xoá làm Quyên chờn chợt. Cô lắp bắp: “Tôi đi tìm…” Nói có nửa câu vậy, rồi Quyên đưa tay lên
ngực, như sợ trái tim mình nhảy vọt ra ngoài. Kumar là người thông minh, chợt hiểu, anh nói ngay một hơi: “Xin chị đừng sợ. Chị tìm gì? Tôi tên là
Kumar. Kumar sống ở trại Goldberg này”.

Quyên nhìn Kumar. Gã da đen không cười nữa, đôi môi tươi nhấp nháy. Bình tĩnh lại chút ít. Quyên cố can đảm nói lắp bắp: “Tôi…ôi… tìm… anh
Dũng. Tôi là vợ…”

Hoá ra cô ấy đi tìm chồng! Kumar chợt nhớ ra ai đó trong trại đã kể về Dũng. Dũng thì Kumar không lạ. Anh ta ở đối diện với phòng Kumar. Anh cũng
từng nghe người ta kể, Dũng lạc mất vợ khi qua biến giới. Thì ra, đây là người đàn bà mà đôi khi trong các câu chuyện của người Việt bên bếp nấu,
nhà giặt, được loáng thoáng nhắc tới. Cô ta thực đẹp! Kumar thầm nghĩ. Có những người đàn bà khi có chửa nom dệch dạc, dị dạng, xấu lắm. Lại có
những người đàn bà mang thai tới tháng trở dạ mà vẫn đẹp, thậm chí nom càng đàn bà, mỡ màng, tươi tắn, hấp dẫn hơn. Khi ấy, anh bỗng nhớ tới khuôn
mặt sạm nắng, quắt queo của chị cả anh.

Chiến tranh ở nơi đâu chẳng như vậy! Có lần anh chia sẻ với các bạn trại viên Việt Nam.

Những cuộc bắn pháo dữ dội giữa các toán quân đã cắt đứt các đường giao thông. Công việc buôn bán sản phẩm ở trang trại của cha mẹ anh bị ngừng
trệ. Đồng cỏ chẳng còn ai thả trâu và lùa cừu, dê về chuồng khi trời sập tối. Kumar từng nhìn thấy trên một cánh rừng, hơn hai chục người cùng nòi
giống băm vằm, nổ súng như điên dại vào nhau, để tất cả cùng chết thê thảm. Ông anh rể trên thị trấn bặt tin sau trận pháo dữ dội của phiến quân,
rồi mất tích. Chị anh, nàng Jokabani chưa từng vất vả, nay vác cái bụng chửa bốn, năm tháng đi tìm chồng. Theo đường la và ngựa của những đoàn
người buôn lậu len lỏi trong rừng, Jokabani mò mẫm dấu vết chồng mà không thấy, rồi ngã bệnh vì sương gió, chị đẻ non, băng huyết, mất lúc hai tám
tuổi.

Người đàn bà này trẻ và đẹp hơn so với người chị của anh. Cô ta lại gặp may mắn hơn, nên đã tìm được trúng nơi ở của chồng.

Kumar đi trước, đưa Quyên tới cuối dãy hành lang. Anh dừng lại trước gian phòng có cánh cửa sơn màu trắng toát. Cửa có cái lỗ kính quan sát như mắt
chột. Anh gõ cửa, gọi lớn: “Anh Dũng ơi, có khách này!”

Quyên không thể hình dung cuộc gặp gỡ với chồng, người cô thương yêu tha thiết, người cô hy vọng và tin tưởng vô vàn, lại tẻ nhạt, vô duyên tới
vậy.

Khắc giây cửa bật mở! Dũng giật thột khi trông thấy Quyên. Thoạt tiên, ngay khi nhìn nửa giây qua lỗ quan sát, anh nhận ra Quyên, lập tức mắt anh
sáng bừng vì bất ngờ. Song, cũng lập tức, khi cửa bật mở, đập ngay vào mắt anh là cái bụng phưỡn ra chềnh ềnh, khác lạ của vợ.

Khi đó, trong đầu anh, thay vì sự kinh ngạc khi vợ bất ngờ xuất hiện là một câu hỏi loé lên trước cái bụng to kềnh càng, sắp tới ngày sinh tháng đẻ
của Quyên. Quyên cũng nhận ra cái nhìn đầy ngỡ ngàng của chồng, dù lúc đó, đôi mắt cô đã nhoà lệ.

Cái bụng, vâng chính cái bụng phưỡn ra chợt như gáo nước lạnh đổ oà, dập tắt niềm vui, dập tắt ngọn lửa nhỏ vừa loé lên trong đôi mắt Dũng.

Suốt đêm, cả hai vợ chồng không ngủ. Mấy lần Quyên đưa tay quàng sang chồng, đều bị anh hất ra một cách phũ phàng. “Cô chửa với thằng nào?” Giọng
Dũng gằn trong đêm.

Quyên có thể nói dối. Cô có thể bịa ra rằng, chính cái thai trong bụng là giọt máu của chồng cô, của Dũng. Bởi người ta, trong cuộc di dời mạo
hiểm, đầy bất trắc ấy, ai trong họ còn nhớ được vợ chồng đã bao lần yêu nhau?

Nhưng Quyên không thể nói dối! Cô là dạng người không biết nói dối! Sao có thể nói dối với chồng, người cô muốn yêu trọn đời.

Quyên đã kể hết với chồng.

Cô nói về cái đêm vượt biên, khi anh đã ở bên kia biên giới, cô ở lại bên này hoảng sợ ra sao. Cô kể về dải rừng mênh mông trắng lạnh, không thể
thấy lối ra; tới căn nhà gỗ, cái chòi bắn, nơi gã đưa đường, tên Hùng, đã giam cầm và chiếm đoạt, ăn hiếp cô suốt gần tám tháng trời. Cô kể cả cái
vách đá đầy rêu cao ngất và thảm rừng đầy lá mục lẫn tiếng tru của bầy sói đói. Tất nhiên Quyên nói rằng, cô không yêu Hùng. Cô bị cưỡng hiếp. Cô
thầm thì thổ lộ, kể về những ngày, đêm biết bao thương nhớ chồng, và cả lần cô muốn giết Hùng và tìm cách chạy trốn. Cô cũng đã nói, giọng gần như
khóc với Dũng: “Trên đời này em rất và rất yêu anh, chỉ yêu anh”. Quyên nói, gã – kẻ đưa đường muốn lấy cô làm vợ và định đưa về thành phố để sinh
nở, nhưng cô quyết định đi tìm anh…

Nằm bên cạnh, Dũng đốt thuốc liên miên. Anh không thể tin được mọi tình huống lại có thể diễn ra như lời vợ anh nói. Làm gì có “thằng đưa đường”,
“đám thảo khấu” nào lại tử tế tới như vậy. Bắt hiếp, chửa và thả ra, lại còn đưa đi tìm chồng! Vô lí! Vô lí quá! Quyên, vợ anh đẹp như thế. Phải
“có cái gì” với nó chứ!? Nhất định là phải có tình ý gì với nhau! Thi thoảng anh lại nhỏm dậy, rồi lại nằm xuống. Những lời kể của Quyên khi như
cơn gió thoảng bên tai, khi như tiếng gươm giáo loảng xoảng, làm lòng anh tan nát. Bấy lâu nay, từ ngày vợ chồng lạc nhau, rồi anh nhập trại. Dũng
như người mất hồn, quẫn trí. Xưa, anh hy vọng biết bao nhiêu, về một vị trí xứng đáng đợi chờ anh ở thế giới phương Tây đầy hấp dẫn, thì ngay sau
vài tuần nhập trại, anh thất vọng bấy nhiêu. Con người ta phải có công việc, một nhà khoa học tương lai như anh càng cần có công việc, thế mà bao
ngày rồi, anh trở thành kẻ vô công rồi nghề. Bằng cấp, học vị tiến sĩ của anh, giờ đây chỉ là mớ giấy lộn. Kiến thức và những khát khao, tiền đồ
của anh chỉ là sự phù phiếm. Một sự chờ đợi mệt mỏi, vô vọng! Anh hoang mang đến sợ hãi vì tới tận đây, giữa lòng phương Tây, mới biết, mới tai
nghe mắt thấy rằng, có những kẻ chờ đợi giấy tờ hớp pháp cả vài chục năm, khi tuổi thọ chẳng còn trẻ, thành thứ người vô tăm tích, bởi không có một
quốc tịch gốc rễ giấy trắng mực đen ghi vào hồ sơ xét nhận kẻ tị nạn. Đau thật đau, buồn rõ buồn, khi anh tự nhận ra, sau bao nhiêu năm chí thú,
học hành nghiêm chỉnh, giờ đây vô hình trung, anh đồng hạng với những kẻ vô học, với đám người vô công rồi nghề, trắng đêm nằm khàn, hay vùi đầu
vào trong những cuộc sát phạt cò con, hoặc những băng hình rẻ tiền, chôn vùi đời sống ngập chìm vào men say bia rượu. Anh cũng đồng hạng, với tư
cách của những kẻ chỉ mơ ước đủ miếng cơm manh áo, cùng đường ra đi, bao hy vọng tới đây. Và, đối với họ, những kẻ ấy, cuộc sống chờ đợi phía trước
thật oái oăm, vì ngay kể cả lúc họ đã có giấy tờ, lại phải tìm kiếm một may mắn khác, chờ đợi “may mắn có một chỗ làm”. Còn công ăn việc làm hiện
tại, khi chưa có giấy tờ hợp pháp, dành cho họ, cho anh, cũng phải chui lủi, dù đó là những công việc mạt hạng nhất; tỉ như đưa phát quảng cáo, rửa
bát hoặc dọn dẹp ở một cửa hàng nào đó của các quán Tầu hay tương tự. Thế đó, những công việc của cơ bắp, trống rỗng về trí não. Sự mất tích của vợ
là cú đòn thứ nữa, đau đớn hơn, nặng nề hơn, dằn vặt anh bấy nay. Nhưng anh vẫn hy vọng tìm thấy vợ. Anh đã dò hỏi khắp nơi. Anh đã ki cóp từng
đồng D.mark và làm bất cứ việc gì để có tiền. Từng ngày một, những quán ăn Tầu hút kiệt sức anh, từ chín giờ tối tới quá nửa đêm, bên chồng thìa,
nĩa và bát, đĩa cao ngất, bên chảo, mỡ và đống thức ăn thừa. Bàn tay chưa bao giờ làm việc cực nhọc của anh trong quá Tầu bị nước rửa nhãn hiệu
Pril làm mốc thếch, lột đi từng mảng da mỏng. Nhẫn chịu, anh ăn uống kham khổ, chắt bóp từng cent, cũng để một phần cho hi vọng. Hi vọng gặp lại
Quyên. Anh cố sống thoi thóp, khi những sở ước về nghề nghiệp, về danh vọng trở thành vô vọng ở trại tị nạn, bởi hi vọng cho ngày gặp lại Quyên!
Vậy mà giờ đây, vợ chồng gặp nhau, sự thể lại thế này. Cứ nghĩ vậy mà lòng Dũng đêm nay như có trăm ngàn nhát chém.

Phản bội! Anh bị phản bội!

– Thôi, cô im đi!

Quyên câm lặng

Trong màn đêm, cái bụng vợ vồng cao thì không im lặng, nó như tảng đá đen sẫm, nặng nề, hắc ám hằn lên bức tường trắng. Nó tiếp tục vò xé con tim
tới đau đớn khôn cùng của Dũng. Anh chợt cảm giác, những nét vô cùng thương yêu của người vợ ngày xưa chẳng còn nữa, tất cả tán biến đi đâu hết!
Chỉ tại cái vồng bụng nặng nề hắc ám kia, nó làm tất cả những gì quen thuộc, yêu dấu, đêm nay thoắt chốc trở lên xa lạ. Ghê tởm!

Quyên quàng tay sang lần nữa.

Không! Tởm lợm quá! Anh phũ phàng hất tay Quyên ra, lặng lẽ xoay người.

Bất lực, Quyên rấm rứt khóc…

Một tuần kế đó, cái tuần thật khốn nạn, chẳng có ai thuê mướn! Anh bỏ đi, lang thang suốt trong thành phố cho hết ngày.

Tối tối, anh trở về ngồi lì bên quán rượu gần trại, âm thầm uống.

Anh thường về tới phòng khi đã quá nửa đêm.

Đêm nay, Quyên không thức chờ chồng về như mọi đêm. Cô đã ngủ. Cái chăn mỏng đắp hờ lên người. Nửa tiếng sau, chăn ấy rơi xuống thảm.

Mười hai giờ đêm, có tiếng lách cách mở khoá cửa. Dũng về. Anh không nhìn vào giường vợ, tới nằm trên cái đêm cá nhân bên góc tường. Men rượu làm
anh thiếp đi nhanh chóng.

Bây giờ trăng đã rằm.

Trăng lên. Cái đĩa bạc to tròn, cao, sáng lồng lộng chiếu qua cửa sổ rộng trong vắt, như trải một tấm thảm sáng vàng óng lên chỗ Quyên nằm. Thứ ánh
sáng dịu, lành mạnh, ảo huyền của trăng đầu đông làm cho người ta có cảm giác, chiếc áo ngủ mỏng màu thiên thanh phẩy kim tuyến Quyên mặc trên mình
bỗng trở lên trong suốt. Trong thứ ánh sáng ma mị của trăng đêm nay, thân hình Quyên bấy giờ, những nếp vải mềm uốn lượn, ôm sát cơ thể chợt biến
cô như một pho tượng nằm nghiêng, được dát thêm lên một màu tơ vàng óng, mong manh.

Anh nhỏm dậy, sững sờ nhìn Quyên. Khuôn dáng kì ảo của Quyên bấy giờ làm anh xao xuyến. Sao em tới được đây? Có đúng là em không? Anh thì thầm và
tới bên Quyên. Khuôn mặt của Quyên từ xưa, vốn vẫn rất tươi, bình thản. Trong ánh trăng đêm nay, càng gợi vẻ thanh thoát, hấp dẫn lạ thường. Đôi
môi he hé, rõ bờ môi nét trái tim, môi dưới rất mọng như mời gọi. Đôi mắt Quyên nhắm lại, càng làm rõ hàng lông mi dài. Thăm thẳm, Hàng mi thẫm
cong tuyệt vời ấy nổi lên trên gò má trắng mịm màng. Tim anh đập dần nhanh hơn. Anh cảm rõ từng nhịp thở của Quyên. Nhịp thở làm đôi vú căng tràn
sức sống của nàng – mà anh biết rất rõ, chẳng có làn da nào mịn trắng hơn thế nữa – cứ nhịp nhàng trào lên, hạ xuống như sóng dập dềnh, khiến anh
nôn nao. Có lẽ Quyên đang mơ. Nét mặt dịu dàng, tươi tắn của vợ càng làm cho trái tim anh đập nhanh hơn.

Anh bàng hoàng ngắm nhìn thân thể, lướt trên khuôn mặt vợ rồi cúi xuống. Lưng anh ấm nóng dần lên. Lòng anh trào dâng khát vọng làm tình không gì
cưỡng nổi. Anh hôn nhẹ lên đôi mắt vợ rồi chuyển xuống hôn như cắn vào đôi môi mọng chín quyến rũ. Anh nhận ra ngay mùi miệng thơm như mùi cốm, như
mùi sữa quen thuộc của vợ. Mùi da thịt, mùi hơi thở và cả mùi mồ hôi rất riêng của vợ anh lên hương từ vùng tóc sau gáy, từ hõm ngực và từ nách.
Mùi hương của những người đàn bà ta yên, vốn là sức quyến rũ mê hồn nhất, khủng khiếp nhất với đàn ông, làm nên sự rung chuyển kì lạ trong anh.
Toàn bộ những động chạm, bắt đầu từ con mắt tới hình thể, từ bàn tay tới da thịt, làm tất cả khứa giác trong anh được huy động tối đa, vụt tạo
thành cảm giác đê mê, khoái cảm, hạnh phúc dâng tràn ứ, không thể chế ngự. Cơn sóng cảm giác ấy mau chóng lan tràn khắp cơ thể, rung lên, thúc đẩy
từng tế bào trong anh nhộn nhạo, nở ra, có nơi rắn cưng như sắt nguội. Không thể khác, Dũng hối hả mơn man rồi miết, chà xát hai bàn tay lên cặp vú
vợ. Anh rút mặt xuống, kéo áo Quyên trễ hẳn qua vai. Đôi mắt sáng bừng lên. Cúi xuống nữa, anh ghé miệng, cắn và mút nhè nhẹ lần lượt cả hai đầu
vú. Hôi hổi và rạo rực, môi anh bập vào đôi nhũ hoa hối hả, gấp gáp như kẻ khát ra sức uống cạn dòng nước tình ngọt ngào.

Quyên bừng tỉnh. Ban đầu, cô lập tức nhận ra đôi môi, rồi bàn tay ấm nóng và đôi mắt rất gần của chồng… Sức nóng âm ỉ tiềm ẩn của người ta – dục
vọng – cũng trong độ thanh xuân, vốn bao giờ vẫn như lửa than vùi trong tro trấu, cất giấu bao lâu trong vô thức, ở Quyên, giờ bùng lên, cháy rực
thành ngọn lửa nóng giãy hun đốt từng mạch máu thớ thịt của cô. Quyên mở to mắt. Bắt đầu cô ý thức hình như cô được làm lành, tiếp sau là sự cộng
hưởng dữ dội và bản năng. Cả hai điều ấy, khi người ta yêu, thường tan quyện vào nhau, thăng hoa và mách bảo, đáp ngay lại sự yêu thương, một cách
cuồng nhiệt nhất. Quyên choàng tay ghì siết cổ Dũng. Cô nồng nhiệt mút chặt vào môi trên của chồng. Cô cuống cuồng như muốn hút toàn bộ nhựa sống
của người cô yêu thương vô cùng. Sự run rẩy của cơ thể Dũng lây truyền sang cô, phút chốc khiến toàn thân cô chuyển sang trạng thái cũng run lên và
nóng ẩm. Đôi tay trần, trắng mềm của cô cũng quấn lên cổ chồng, dịu dàng toả ấm, căng ra, quàng xiết, núi chặt tấm thân Dũng, như để anh và cô cũng
sẽ tan ra, hoà biến vào nhau.

Nhận ra luồng điện rần rật chạy từ thân xác người đàn bà đẹp truyền sang. Dũng giật nảy toàn thân. Anh cuống quýt hôn nữa xuống phía dưới. Anh kéo
tuột áo ngủ Quyên xuống qua bờ vai trắng ngần. Trong trăng, đôi vú đầy căng, lồ lộ hai núm vú đã cương lên, hơi thẫm màu, nhưng nhọn hoắt, tâng
tâng thách thức.

Như một thói quen được truyền lại từ vô thức của giống đực, bàn tay anh luồn xuống dưới tìm kiếm.

Khi ngọn lửa của tình ánh đang rừng rực cháy, sắp tới độ tưởng không còn gì ngăn chặn và kiềm toả. Dũng bỗng đụng phải cái bờ bụng. Cái bụng ấy,
chính nó, xưa là khát khao, ao ước một đứa con của “kẻ đưa đường” tên Hùng, nay lại là sự căm thù của Dũng, giờ đây như con đê chặn dòng thác yêu.
Đúng như bất chợt có dòng nước lạnh tàn nhẫn, đột ngột ùa tới, khi vùng xác định của cái bờ bụng được phát hiện. Anh lập tức tỉnh phắt.

Như mộng du, sự khởi phát và chấm dứt mọi hành vi và cảm giác của Dũng diễn ra hơi vài phút đồng hồ như trên, là một trạng thái mà y học không thể
lý giải cặn kẽ.

Người đàn ông, kẻ là chồng, kẻ đã từng yêu vợ vô bờ kia chợt ngơ ngác, bàng hoàng choàng tỉnh. Anh ngồi dậy, nhận rõ ra, nhìn rất rõ cái bụng cao
lên trong trăng. Cái vòng trắng có đường chỉ đen mờ chạy dọc bụng. Tự nhiên, anh cảm giác thấy mùi mồ hôi không phải hương thơm quyến rũ, kích
thích anh như xưa. Làn da trong trắng, mới trước dăm tích tắc, gây cho anh đầy ham muốn, giờ lại sực lên mùi ô uế, ghê tởm. Trong đầu của người đàn
ông phút trước đang yêu thân xác Quyên tới cuồng điên, bốc lửa ấy, cái vồng bụng có sợi chỉ đen chạy dọc chợt cho anh thấy hiện lên hình ảnh rất rõ
của người đàn ông khác – kẻ đưa đường – đang hối hả ôm, ghì, vuốt ve, hôn hít và sờ nắn khắp thân thể vợ anh. Và, chính cô ta, chính nó – Quyên –
chứ không ai khác, cũng chủ động ôm siết chặt cứng mái đầu của người đàn ông ấy khi gã vục mặt giữa hai háng chân cô ta. Giống như bây giờ, trước
đây tí thôi, cánh tay mềm, như con rắn trắng đã ôm siết lấy anh. “Thật khốn nạn. Đồ đĩ! Đồ khốn nạn!” – Anh đứng dậy, thét lên trong vắng lặng.
Tiếng anh xé vỡ sự im lắng của gian phòng, tiếng gào lọt qua khe hở của các cửa sắt, làm những tấm thép, kính rung lên, nghe âm âm run rền và dài
ra: … khốn na… nạn…

Tiếng thét trong đêm im ắng như tờ vỡ ra, xé tan không gian chật hẹp, làm Quyên cũng thoắt nhỏm dậy.

Bẽ bàng! Ngơ ngác! Bất ngờ và đau đớn Quyên trân trân nhìn anh.

Anh quay phắt lại nơi nằm. Anh gào lên, nức nở tới lạc giọng: “Trời ơi là trời!” Anh đổ vật xuống niệm như một gốc cây bị đốn ngã. Kinh tởm!

Tiếng thét đau xé đến tuột đỉnh của một người đàn ông từng yêu vợ vô cùng giờ đây trong đêm, giữa cái phòng bốn bề tường trắng hệt như tiếng con
thú hộc lên khi bị nạn. Tiếng kêu thương đau ấy truyền ra ngoài, đập mạnh vào những tấm thép tường nhà, làm Kumar ở phòng bên thức giấc.

Kumar mở to mắt, lắng nghe trong đêm. Hình như có tiếng gì đổ vỡ. Có tiếng loảng xoảng và tiếng cửa đóng dập khá mạnh. “Họ lại cãi nhau rồi. Tại
sao vợ chồng tìm được nhau lại cãi nhau vào đêm khuya thế?” Kumar thao thức không ngủ được.

Kumar chợt nhớ tới con đường mòn đầy lân tinh và lá ải mục ẩm ướt. Anh và bà chị đi mãi trong rừng gần cả tuần. Khu rừng xơ xác và hàng chục xác
chết nằm ngổn ngang. Xác một phụ nữ bị chuột rừng và kiến, mối đã ăn thủng gần hết những thớ thịt trên khuôn mặt xám đen. Lúc nhúc dòi bọ bò ra từ
hốc mắt. Chị vẫn kiên nhẫn tới từng cái xác hôi thối tìm chồng. Anh chợt nhớ tới đám thiêu xác chị anh. Giàn lửa phừng phừng cháy và tà áo bén lửa
lem lém, khi đôi mắt anh ráo hoảnh, trân trân nhìn thân xác chị anh dần trở thành tro bụi trên giàn thiêu. Chẳng một ai than khóc, dầu trong lòng
anh và bao kẻ phật tử có mặt hôm đó, vô cùng đau đớn.

Trại tị nạn Godberg có tới sáu, bẩy chục phần trăm là người Việt. Có thể tìm thấy ở đây hầu hết người của các tỉnh đông dân trên xứ sở hình chữ S.
Họ đều nộp đơn xin tị nạn chính trị, nhưng thực chất chẳng mấy ai có thể đưa ra bằng cớ xác đáng về lí do chính trị. Trong đơn xin tị nạn, các lời
khai đều na ná giống nhau, như một kịch bản, mà kẻ đi trước có kinh nghiệm đã mách nước, “mớm cung” cho kẻ đến sau. Những kịch bản không bằng cơ
vừa ngây ngô, vụn dại, vừa tức cười tới vô lí. Người ta cứ đinh ninh rằng, những người dân bình thường nước sở tại không hiểu nhiều về Việt Nam,
thì bọn chính quyền, cán bộ của Sở ngoại kiều Đức cũng ngây ngô như vậy! Nhưng chục ngàn cây số bay, địa lí hai nước xa cách, ai mà sang tận Việt
Nam để thẩm tra hàng vạn lời khai?! Giấy tờ gốc, chính thức về nhân thân, như chứng minh thư hay hộ chiếu được huỷ đi, hoặc giấu nhẹm ở đâu đó, rồi
phịa ra một cái tên giả, địa chỉ giả nốt. Theo họ, làm như vậy, có lẽ: bố chúng nó cũng không biết đâu mà lần! Ô hô, thế là chớp nhoáng, một con
người cụ thể, có tên, có xuất xứ, thôn quán, phường xã,v.v… đều bị tự chính tay họ xoá hết dấu vết, trở thành kẻ vô tăm tích!

Song Sở ngoại kiều thực sự có ngu không? Thời đại thông tin toàn cầu, các đường truyền tin tiện dụng, nhanh như điện. Một điều nữa, kẻ tị nạn không
lường thấy là, nước Đức trước nguy cơ thiệt hại lớn về tài chính, không thể tiếp tục mở toang cánh cửa, như thời “với mọi giá cho người phía Đông
chạy sang phía Tây”. Chính sách khôn khéo của thời chiến tranh lạnh chợt lỗi thời! “Đã tới lúc phải tỉnh táo, áp dụng chính sách mới phù hợp với
thực tế”, chính quyền Liên bang nhận ra, chi phí cho kẻ tị nạn quá tốn kém. Người ta nắm chắc tình hình Việt Nam hơn người tị nạn ngây ngô lầm
tưởng! Họ biết thừa trong mọi lời khai có bao nhiêu phần là sự thật; hiểu kĩ mọi sự bịa tạc, dựng đứng, nhằm tạo nên chân dung giả, để có lí do tị
nạn theo luật pháp, của cả những kẻ láu cá nhất. Ngay cả vài câu hỏi tâm lí của mấy tay nom có vẻ dễ dãi ở phòng thẩm vấn, tưởng là lăng nhăng,
tưởng là vớ vẩn, cũng đủ dẫn “kẻ cần được làm rõ” bộc lộ ra cái đuôi dối trá! Song chả hơi đâu mà đôi co, vạch vòi đen trắng, trước một người đang
hy vọng! Thường là cánh thẩm tra tủm tỉm cười rồi hạ câu cuối cùng kết thúc một buổi nói chuyện khơi khới: “Vâng, chúng tôi ghi nhận! Xin ông (bà)
kiên trì chờ đợi phán xét của Toà án liên bang!” Đó là câu nói cuối cùng, rất lịch sự, tràn trề hy vọng, dành cho mọi đối tượng tới từ một xử xở
gần 40 năm với 4 cuộc chiến đẫm máu, đang chuyển mình sang kinh tế thị trường với cả thành công và thất bại.

Như vậy, ở Sở ngoại kiều, suy cho cùng, người ta đều biết tỏng thực chất lí do xin cư trú của người Việt đều là vấn đề cơm áo gạo tiền, chứ chẳng
có nguyên nhân nào khác. Họ cũng biết tỏng, sự mong muốn thoát khỏi cảnh đói nghèo đã đẩy bao người Việt tới đây bằng giá đắt, với nhiều con đường
khác nhau. Kẻ từ Việt Nam tựa cơ du lịch châu Âu để đến thăm người thân cũng “lui lại” với gia đình. Đại đa số là Thợ khách hay đám bộ đội kiếm ăn
tại Nga và các vùng Đông Âu dạt trôi, tứ tán mãi, nay tràn sang, đọng xuống xứ Đức. Mộng làm giầu ở nước người, qua những truyền thuyết của đám Thợ
khách – Hợp tác lao động thời Đông Đức ở lại, kiếm tiền nhanh như bắt được của, khi hỗn quân hỗn quan, lúc bức tường Berlin vừa sập, khiến người ta
bị hút tới đây bằng nhiều giá.

Lao động từ các nước quanh Đức tới còn đỡ tốn kém. Khoản chi phí để vượt biên giới chỉ dăm trăm USD, chứ ai lặn lội từ quê nhà sang, đã bán cả nhà
cả cửa, hay vay nợ nặng lãi, để có hai ba chục ngàn đô làm lộ phí cho chuyến đi, thì thật sống dở chết dở. Nhất là khi tới trạm, chỉ cần ba bốn
ngày nếm mùi cấm trại, trợ cấp nhỏ giọt nửa tháng một lần, nhận phiếu ăn thay tiền mặt, sẽ biết thực chất giấc mơ hôm nay, việc kiếm ăn tại Đức
chẳng thể chộp giật như thời tranh tối tranh sáng nữa. Còn đâu cơ hội kiếm đô-la như móc túi lấy mùi xoa. Tan mộng làm giầu nơi thiên đường khi nhà
cửa ở quê chẳng còn, khi quay lại Việt Nam cũng cần ít ra hơn ngàn USD, xấp xỉ cả ngàn Euru để mua vé máy bay, thì quả thật là: đi mắc núi, về lại
mắc sông!

Nằm lại! Nhắm mắt nằm lại trong trại, dù hắt hiu chờ đợi! Goldberg hoá ra nơi quần tụ một đống người, đủ mọi thành phần. Tất nhiên dân tộc nào
chẳng vậy, cứ ba người hợp lại một góc trời nào đó, là có thể mang theo hầu hết tập tục sống của sắc tộc ấy rồi. Đám người Viết sống ở đây có khi
lên tới cả trăm người, thì rõ là Goldberg hệt như một cái làng Việt được dinh cả sang châu Âu, dinh theo mọi thói ăn nếp ở đi ở trọ xứ người…

Ban đầu người dân sở tại cũng thương họ lắm. Việt Nam, trong hiểu biết xưa nay của nhiều người Tây Đức, vẫn là xứ xở khốn khổ triền miên vì chiến
tranh! Phải cưu mang các dân tộc khác bị khốn nạn bởi chiến tranh, vốn như là quy phạm đạo lí, đạo đức của một đất nước, mà cả dân tộc đều thấm
nhuần sự đau khổ, khi đã trải qua hai cuộc Thứ chiến đẫm máu. Thấm thía lắm chứ, khi sau hai chiến cuộc, họ là kẻ thua trận. Đầu tiên, sự quan tâm
ấy thuộc về các bà, các cô người bản địa. Người mẹ bất kì sắc tộc nào chẳng giầu lòng nhân ái, mà người mẹ Đức thì đã hai lần tiễn con đi chết
trận, lại từng ăn đói mặc rét trong băng giá, trong tủi hờn, trong những tháng năm hồ hôi đầm đìa đổ trên xuống đống gạch vụn, kiên trì xây lại cả
thành phố, thì làm sao giờ đây có thể vô cảm trước những con người tới từ xứ sở đã trải qua bao năm khốn khó vì chiến cuộc? Hai từ Việt Nam vang
lên trong các cuộc biểu tình chống lại sự tàn bạo của nước Mỹ hôm nào, giờ trở thành dư âm xót xa gắn liền với hai từ tị nạn!

Song chỉ được một thời gian ngắn, sau sự quan sát, nhìn nhận đám dân trại Goldberg, người sở tại dù giầu lòng vị tha, dù đã sống trong một xã hội
văn minh đến mấy, bắt đầu thay đổi nhận thức. Qua tiếp xúc, qua báo chí, qua dự luận, người ta bắt đầu giảm thiểu lòng trắc ẩn dành cho đám ngụ cư.
Điều ấy chẳng ai muốn, vì ở đất nước này, mọi biểu hiện có tính kì thị chủng tộc vốn được những người tiến bộ coi là một tội ác, là vi phạm luật
pháp.

Có hai ba điều Sở ngoại kiều thành phố rất bức bối, đó là cách ăn ở thiếu vệ sinh, thiếu nề nếp của trại viên. Người ta thực khó chịu mỗi khi kiểm
tra nơi ăn nghỉ của các trại viên. Công nhan Công ty vệ sinh người bản địa, mỗi khi lái xe tới trại thu rác đã mất hết cả kiên nhẫn khi phải tiếp
xúc với rác thải của người Việt. Có nói mãi cũng như nước đổ đầu vịt, khi việc phân loại rác rưởi đã có quy phạm, đã đánh màu từng thùng rác rõ
ràng, cũng trở lên bất lực, vì cái tiện tay quăng rác của trại viên. Mấy người dân có nhà vườn, nhà nghỉ quanh trại đều muốn điên lên, không thể
hiểu nổi. Sự bực tức đến mức giữa đêm phải nhấc máy, ca cẩm với cảnh sát, khi vô phúc ngày họ về nhà nghỉ, gặp phải đúng dịp sinh nhật hay hội hè
của đám người hiểu sự tự do cá nhân là không bao giờ có giới hạn. Nhạc mở vỡ loa, tiếng hò la chúc rượu bấp chấp thời gian. Bất chấp đã tới giờ
không được làm ồn, ảnh hưởng giấc ngủ của người khác. Cảnh sát cũng bó tay, sau dăm lần chạy xe bật đèn nhấp nháy, hú còi đến nhắc nhở. Kể cả biện
pháp phạt vi cảnh cũng vô hiệu, khó mà lay chuyển được đám người coi trời là vung, coi luật pháp là thứ vớ vẩn chẳng cần biết của nước sở tại. Làm
quái gì được họ, khi mà luật pháp Đức lại có điều khoản quy định bệnh vực kẻ thu nhập thấp. Thu nhập của trại viên đã được Sở Ngoại kiều và sở Tài
Chính tính toán chi li tới từng chi tiết, để con người phải được sống mức tối thiểu nhất! Vậy là không còn khoản nào dư ra, thì cùng lắm, nếu bị
phạt, mỗi tháng chỉ trừ được có 10 đồng thì đến bao giờ mới đủ số tiền nộp phạt. Vậy là câu cửa miệng: Ăn nhằm gì! Der ist mir egal – Mặc mẹ nó!
Chả sợ bố con thằng nào! Đại loại như vậy, và họ bấp chấp tất cả. Phạt nữa vẫn chứng nào tật ấy. Cái thứ ở trọ, ở nhờ, ăn đợ, trong tâm lí chớp
nhoáng kiếm tí rồi phắn, dường như thường trực trong nếp sống của những kẻ không hề biết một câu tiếng Đức để nhìn nhận luật pháp sở tại, sinh ra
trăm ngàn chuyện nhiêu khê khác nữa!

Đã sinh hoạt làng xóm thì sinh sự lắm. Nó tách biệt hẳn với cách sống của những người bản địa – một đất nước mà hành vi cá nhân trong quan hệ cộng
đồng luôn theo luật pháp, đất nước của nôi sinh triết học, của tinh thần kỉ luật và đồng đội chạm phải một sắc tộc khá lạ, khu người Việt Goldberg,
đúng như một hòn đảo nhỏ, cô độc giữa châu Âu. Khép kín! Đấy là nhận xét cay đắng, gọn lỏn sau bao nhiêu năm nghiên cứu về cộng đồng người Việt của
một chương trình phát trên kênh truyền hình lớn ZDF. Có thể chính vì lường được ở tập tục các nhóm dân có tính cá biệt như thế, mà Sở ngoại kiều đã
tán thành phương án xây dựng trại biệt lập giữa nơi xa trung tâm!?

Thực ra những người Việt có chút ít tự trọng cũng tự thấy không ổn. Nhưng khốn nỗi, sự bằng vai phải lứa, bất kể gốc tích, tuổi tác của đám người
buôn luôn cần có kẻ cầm đầu mà lại không có kử cầm đầu, dẫn tới tình trạng chẳng ai nói được ai. Chỉ tới khi dân thành phố bàng hoàng khi trông
thấy cảnh sát còng tay một loạt người Việt bán thuốc lá lậu, treo tay họ lên hàng rào mắt cáo quây hội chợ, cho hàng trăm người Đức đi chợ qua cũng
tự thấy xấu hổ, đã phản bội cảnh sát ngay tắp lự, mới làm dăm kẻ trong trại, quanh thành phố giật mình, thấy như chính mình bị sỉ nhục. Chuyện thật
đau lòng khi ai đó thuật lại cảnh cánh buôn lậu bị bắt mấy chục tút thuốc lá ở chợ trời bán đồ cũ. Đám đàn bà con gái tiếc của, sợ bị giam, bị thu
hết tiền com cóp bấy nay, đã chắp tay vái như tế sao tay cảnh sát, trẻ như con cháu họ. Có gì đâu, một câu tiếng Đức không biết, lạy nó chắc nó
tha! Họ nghĩ vậy! Khốn nạn, đám cảnh sát ngố chả hiểu nếp tẻ ra sao! Cái xứ này, vốn chẳng đứa nào phải lạy đứa nào, cứ pháp luật mà chơi! Nay thấy
người ta cứ chắp tay, điệu bộ như vậy, thì ai mà hiểu được! Ngài cảnh sát trẻ đâm ngơ ngác, bàng hoàng không biết xử lí sao cho đúng.

Rồi một dạo, cả thành phố xôn xao về những câu chuyện kinh hồn mà báo chí, truyền thông Đức tung lên màn hình với cụm từ bể máu – Blutbad – của đám
người Việt pử Đông Berlin. Trời ạ, một đêm chém giết, bắn hạ sáu mạng người! Máu chảy từ tầng tư, đọng bầm tím từng mảng, từng cục, bám đầy tay
vịn, bê bết xuống tận cầu thang tầng trệt. Rồi tới cuộc bắn nhau, giữa thanh niên bạch nhật, sau vụ thanh trừng, gây nên cái chết một ông trùm, có
cái tên rất hiền lành, mơ mộng: Mây Phệ. Báo thuật lại, đạn bay veo véo, nổ chí chát giữa ban ngày ban mặt, ở khu nhà móng ngựa Rihn, nơi quần tụ
cả ngàn người Việ! Cảnh tượng y như phim bạo lực Mỹ! Kinh khủng nữa là chuyện, chỉ vì muốn chiếm đoạt vẻn vẹn 5.000 Euro, hai kẻ lạ mặt xông vào
một tiệm ăn, nửa đêm giết tuốt cả Tàu lẫn Việt. Sự kiện một tay người Việt trong một đêm dùng kiếm rửa hận, chém phăng vợ cũ và cả em rể lẫn em vợ
trước mặt hai đứa con của gã, ngay cạnh vùng Goldberg, làm đám dân sở tại rùng mình, sởn tóc gáy… Tất cả, bao nhiêu là tai ương, bao nhiêu là
hình ảnh xấu xí, bắt đầu làm dân sở tại nhìn đám người trong trại với con mắt hoàn toàn khác những buổi đầu. Lại nữa, có một ngày, báo địa phương
đưa tin, ngay trong thành phố, một người Việt, trong bốn năm liền câu trộm hết sạch cá trong hồ công viên. “Nó câu thản nhiên như là ao nhà của nó
mà cấm kẻ nào phát hiện!?” Dân chúng sở tại cười vào mũi đám cảnh sát, cười vào tụi Trật tự quản lí đô thị là lũ ăn bám vô dụng. Rõ ràng là cảnh
sát đã đi tuần tra liên tục, đám quản lý trật tự đô, thị thuộc quận, thành phố cũng đi tua thường xuyên, thế mà tất cả như mù, để một thời gian
dài, nơi nuôi cá công viên cho trẻ ranh ném bánh tiêu khiển, bị một tay nhỏ thó câu cho bằng hết. Kẻ câu trộm ranh ma ấy không tha bọn cá, từ loại
nặng ba, bốn năm cân tới loại hơn yến! Hắn, một tay sinh ra trên cánh đồng chiêm nào đó ở Việt Nam có biệt tài, sát cá. “Câu cá không có cần! Chỉ
với một cuộn cước quấn trong ống bơ giấu ở tay áo khoác?! “Hắn khai: “Câu nhập nhoạng tối, có hôm cả tới nửa đêm. Chở cá bằng xe đạp về trại, xả
khúc, bán cho đám đồng hương quanh thành phố. Trúng mánh, được con cả yến thì cho vào tải đi các vùng xa hơn tiêu thụ.

Sau này, với bè bạn, đồng hương, hắn nói thêm: “Cá tây to xác, khoẻ như voi. Có con ròng mãi cả hai ba tiếng, nhưng ngờ nghệch lắm. Sao nó ranh như
tớ được!” Đến cá mú cũng vận dụng được về độ tinh ranh vặt vãnh!

Đấy là những chuyện báo chí nói tới. Dân sở tại đâu biết hết trăm thứ bà rằn khác xảy ra như cơm bữa trong trại. Như Frau Graumann, nhân viên vệ
sinh trại chứng kiến, thì báo chí mới đụng tới bề nổi của đám cư trú. May mà bà già này ít ngồi đôi mách lẻo! Nếu không, chắc dân thành phố còn
kinh ngạc và bất ngờ hơn nữa và, biết đâu nếu tường hết, họ, những kẻ thích chuyện tếu của Azit Nesin sẽ hứng khởi chi tiền cho một ai đó trong
trại, viết hẳn một pho sách, kiểu lão Bá Dương Trung Hoa đã viết để… cười mũi vào lũ quản lý thành phố!?

Nhưng xem ra, Godberg còn đỡ phức tạp hơn các khu đông dân Việt ở phía Đông Đức, nơi đại đa phần là đám Hợp tác lao động. Bởi tại đó, khi có giấy
tờ chính thức cư trú sẽ được hợp pháp hành nghề và khi mật độ người Việt phía Đông tập trung cao hơn, cuộc sống tất đa dạng hơn, lắm chuyện hơn các
khu trại, đa phần chỉ đông đúc vào ngày phát tiền và ngày Lễ.

Nói về đa sự ở trại, Godberg không khác gì tình trạng ở các trại khác của người Việt trên toàn nước Đức. Khu tắm giặt và nấu ăn vào những chiều thứ
Hai bao giờ cũng là nơi buôn chuyện của “bọn rách việc”. Cũng không lạ, cánh làm chui, rửa bát trong các tiệm ăn Tầu, Việt chỉ có một ngày nghỉ duy
nhất trong tháng, để trở về trại lấy tiền trợ cấp hay phiếu mua thực phẩm. Cánh buôn thuốc lá lậu, bạ ngày nào nghỉ ngày đó, thường không có ngày
nghỉ, để tranh thủ nhanh nhanh mà đào vàng, cũng vì ngày phát tiền mà về trại vào dịp này. Hôm nay, họ tụ bạ ở khu bếp nấu nướng, tranh thủ tắm
giặt, một dịp truyền tai nhau tin tức, đòng đưa chuyện khắp nơi.

Tuần này, Quyên và Dũng là chủ để của những kẻ rỗi hơi ở khu bếp. Đặc biệt về đứa trẻ nay mai sẽ sinh ra. Nhất là khi Dũng vốn được coi là đứa con
dị bào của cái làng nhỏ này. Điều đó cũng lạ gì đâu, bởi vì cũng có hôm, trong một cuộc cãi vã ở tiệc rượu chỉ mặt Dũng, nói chậm rãi, gằn từng
tiếng, toạc thẳng vào mặt anh: “Mày, một thằng, ông chả ra ông, thằng chả ra thằng. Tiến sĩ là cục c.! Đừng có nhâng nhâng học vị ở cái xứ này. Đây
nhé, tao bảo cho mà biết, tất tần tật sang đây, già trẻ đều gọi là anh. Trí thức, nông dân, học giả, nhà thơ… tuốt tuồn tuột đi rửa bát, đi dọn
chuồng bò, đi thu hái hoa quả, rau dưa, chớp tiền vụ thu hoạch; đi xẻ thịt trong các nhà lạnh, đi buôn lậu thuốc, hay buôn buôn, bán bán ngày ngày
trên vỉa hè… Hê hê, tất cả như nhau, thì khác quái gì ông”. Cái câu nói ấy, từ miệng một kẻ cũng sang Nga một đợt với anh, chỉ lấy bằng đại học,
rồi nhập vào đám lang thangh ở lại chạy hàng cho các “ốp”. Bảo anh ta đứt gánh giữa đường cũng không phải, mà con buôn thì cũng không. Sang Đức
thất nghiệp, cũng không có vốn đi buôn, cùng một trại cả đấy mà sao hai người như mặt trăng với mặt trời? Người ta bảo, họ có gì ân oán với nhau từ
Nga. Nhưng có kẻ lại nói, có quái gì đâu, lão Dũng vẫn nuôi hy vọng, sang bên này với bằng tiến sĩ, có ngày được Đức nó sử dụng, thì tay kia chọc
chơi thôi. Chơi thôi, cái “sự chơi” khi lời nói đọi máu vốn là quan niệm của Dũng, quan niệm của một người xuất thân trong gia đình chỉ tựa vào học
hành mà tiến thân, làm anh suy nghĩ, đau đớn trằn trọc mấy đêm. Nó hệt như ngọn roi tẩm đẫm thuốc độc, lạnh lùng, tàn nhẫn quất thẳng vào trái tim
anh. Nhưng nó lại là một câu nói trắng phớ, phơi bày một sự thật hiển nhiên, mà bản thân Dũng cũng tự nhận ra khi lạc loài ngay chính giữa đám đồng
hơn của mình. Sau bữa ấy, anh càng cảm thấy mình trở nên cô đơn hơn và sự tự xa cách, tách rời, mau chóng đẩy anh trở thành đối tượng cho vài kẻ
dỗi hơi đàm tiếu.

Đám đàn bà, con gái lại có đề tài khác. Trước một người tên Quyên đẹp bất ngờ, bất ngờ về trại họ có hai phương cách bảo vệ chồng hay bồ. Phải rồi,
ai mà dửng dưng được, khi nhận ra sự đe doạ của một người phụ nữ có sắc đẹp đến mê hồn, làm chính những kẻ cùng giới cũng phải công nhận: đàn bà
đẹp đến như Quyên là cùng. Phương sách thứ nhất nhằm tổ chức ngoại giao phòng ngự, họ tìm cách gần gũi làm thân, xun xoe nịnh bợ. Cách thứ hai làm
ngược lại. Họ tìm ngay một chỗ yếu nhất để hạ bệ, bôi bẩn, hạ nhục, sao cho hoen ố họ về mọi mặt, từ dáng điệu, hình thể, đến nước da và khuôn mặt.
Trong trường hợp của Quyên, họ chọn cách thứ hai. Bởi “cái bụng phưỡn” như cái rổ úp, không thể che dấu được kia, là một bằng chứng cụ thể, hiển
nhiên của một loài đĩ không thể nào chối cãi. Tất nhiên, hàng ngày Dũng nghe thấy những lời xì xào về vợ mình. Tất nhiên, Quyên cũng thấy nhiều ánh
mắt, lắm bãi nước bọt và cả bao nụ cười mỉa mai, khinh bỉ của cánh đàn bà trong trại đuổi theo cô hàng ngày.

Những câu thì thào, đủ to, để đuổi theo cô như: “Nom thế mà đĩ”!, hay “Giống này, lắc l. ra, chắc chắn rơi ra một ổ c…” Có bận, có đứa không thèm
nhìn cô bâng quơ nói: “Sướng nhỉ! Nó chơi chán rồi thả ra với cái bụng ễnh lên”. Kẻ bặm trợn, chuyên dựng đứng, nói thản nhiên như đinh đóng cột:
“Con này, chuyên làm sa-lon di động cho các đại gia bên Nga, quen rồi. Giống má tốt cái, xa chồng thế, chịu thế đếch nào được, phải tẩn! Quen mùi
mà. Lạ gì!”. Đứa tỏ ra ăn nói có văn hoa, cười cười bảo: “L.nó, gió trời”.

Với Dũng, đám đàn bà lại có những lời khác. “Tò vò mà nuôi con nhện, ngày sau nó lớn nó quện nhau đi”, “Đẹp chó gì. Đồ đĩ rạc đĩ rài”, “Có vợ mà
đéo biết dạy. Đồ ngu!” Những câu đại loại như vậy, thi nhau bay tới tai Dũng, làm ngọn lửa bực tức, hằn học trong anh như được đổ thêm dầu.

Thực ra với Quyên, khi nghe những lời như vậy, cô đau lòng lắm. Nhưng con người ta, chịu mãi sự hạ nhục, cũng phải tìm ra một lối thoát! Vả lại,
cái thai trong Quyên từng ngày lớn dần lên, cụng cựa nhiều hơn, sẽ như một sức mạnh huyền bí luôn mách cô nhẫn nhục. Nó giúp Quyên có nghị lực
sống, cố bỏ ngoài tai những câu xỏ xiên của mấy người đàn bà ưỡn ẹo đánh mông dọc hành lang mỗi tối. Cô cố lờ đi những cái nhìn thóc mách, khinh bỉ
sau lưng. Nhưng dù sao Quyên vẫn là đàn bà và khi cô tránh được, vượt qua được sự nhỏ nhen hẹp hòi của đám đông, lại rơi vào trạng thái khác, trạng
thái cảm giác cô độc hơn bao giờ hết. Điều ấy thật đáng sợ, khi trong phòng chỉ có mình cô, bao quanh cô là bốn bức tường trắng toát và, cái thai
cũng ngủ, không cụng quậy, hình như không muốn trò chuyện cùng mẹ.

Có một hôm, không hiểu sao cô nhớ tới chuyện khi còn ở Việt Nam, có một người không dưng khen cái tên Quyên của cô sao đẹp thế và hỏi, vì sao cô có
cái tên ấy. Thoạt nghe, cô chỉ ầm ừ cho qua chuyện, song sau bữa ấy cô đã để tâm tìm hiểu ý nghĩa cái tên của mình. Cô tra từ điển và biết dăm điều
về nguồn gốc tên cô. Quyên có thể là tên một loài hoa, hoa đỗ quyên với màu huyết dụ, trắng, phớt hồng, v.v… Dầu có màu gì nó vẫn toát lên vẻ
bình thản, sang trọng, cao quý trong nhóm hoa của ông ngoại cô. Còn có loài chim tên Quyên, nó còn có tên là tử quy, hay chim cuốc, lại là giống
chim có một lịch sử đau đớn. “Chim tử quy bay trên phương Nam, ngoảnh đầu về Bắc kêu cuốc cuốc!” Mẹ cô đọc một câu văn ở đâu đó cho cô. Khi còn
trẻ, cô chỉ nghĩ mình như hoa đỗ quyên. Còn bây giờ, nhớ lại, cô cảm giác, có lẽ tên loài hoa ấy chẳng ứng vào thân phận mình. Cô là con chim cuốc,
đen đủi, chân hồng, đang lẩn trong lũ gà nhà?!

Những lúc như thế, cô nhớ mẹ vô cùng. Có đêm, cô mơ thấy cái ngõ nhỏ nhà cô. Cô mơ thấy cả khu vườn của bà nội ở ngoại thành. Nhớ cái vườn nưng
nức, ăm ắp hương ổi chín trong những chiều sau cơn mưa mùa hạ. Cô nhớ những đám roi mầu trắng và hồng. Sát tường sau là ba cây khế. Giời ạ, có trưa
nóng tới mấy, mỗi lần ra đó, nhìn những túm quả xanh lúc lỉu, chợt mát cả mặt, chẳng thấy khó chịu dù thời khí đang oi. Cô nhớ cả đám hoa chậu, mà
sớm nào cha cô khi còn sống, cũng ra tưới tắm trên ban công. Mùi mộc, loài hoa li ti trắng bạch lẫn vào giữa đám lá xanh mươn mướt, thơm mát, thanh
bạch. Mùi ngâu dịu dàng thoang thoảng, toả ra khi hoa đang độ, từng chùm lấm tấm chín vàng. Những mùa cây như vậy cho không gian của cả phòng cô
trở nên tinh khiết lạ thường. Có đêm, cô còn mơ thấy mình đi giữa những ngôi nhà liêu xiêu, chân tường ẩm và mốc. Nhìn thấy những đám rêu mọc nơi
gốc cây bàng lớn trước nhà. Tán lá bàng xanh xanh, nõn biết, tạo nên một khoảnh mát khá rộng cho đám trẻ con quanh nhà tụ tập giữa đầu hè oi nóng,
đón chờ cơn mưa mùa hạ nổi bong bóng, trên cái sân chung lát gạch vuông gan gà. Có lần cô lại mơ thấy thời cô còn là sinh viên. Thấy cô đi bộ trên
dãy phố. Cô gõ guốc sơn then lanh canh trên những viên gạch hồng lát hè đường, chạy vào dưới một ban công trú mưa với đứa bạn trai. Cô biết, có đứa
trong đó thầm kín yêu cô. Mưa thành phố khi đó chợt ào tới dữ dội hơn. Phơi phới trên mặt đường nhựa sạch bong một màu bụi nước li ti, trắng xoá.
Trong tiếng động của mưa vỗ trên các tàn lá, gõ lên các mái nhà và đường phố khi đã trút đi hết cát bụim rác rưởi, trở nên đen bóng, sạch sẽ – cô
nghe thấy có tiếng ngân nga, ngân nga của bản đồng ca mưa thành phố quen thuộc tự bao giờ…

Tỉnh giấc, cô thấy buồn vô tận và sau đó thường trằn trọc tới tận sáng.

Sẩm tối đầu tuần, người gác trại đột ngột gọi: cô có điện thoại. Quyên ra khỏi phòng không đầy hai phút. Dũng hỏi, ai gọi cho cô đấy? Quyên yên
lặng một lát. Cô không phải là loại người dối trá. Cô ngập ngừng. “Thằng Hùng gọi đến phải không?” Dũng dồn hỏi. Đôi mắt anh đầy nghi ngờ. “Không!
Bạn anh ấy gọi! Anh ta báo cho em, anh Hùng đã hồi tỉnh, nhưng một chân bị giập nát, khéo phải cắt”. “Trời ơi! Hoá ra cô yêu thương nó. Cô vẫn tơ
tưởng tới nó và mong chờ nó!”

Nói hết lời ấy, Dũng tự thấy đau nhói, anh như con thú bị thương, lồng lộn đi lại trong phòng. Trong đầu anh khi đó, lòng ghen tuông làm hiện lên
rõ hình ảnh thằng đàn ông, mà anh nào đâu rõ mặt, giằng xé, âu yếm sờ mó, vuốt ve Quyên. Anh tưởng tượng thấy bầu vú của Quyên bị bàn tay thô thiển
ấy bóp nặn, vuốt ve, mút mát. Anh thấy cả âm hộ của vợ anh, đám lông như mun, đen ngun ngún, mượt tốt như hoa cỏ mùa xuân, cái miện đỏ tươi mà anh
thường hôn hit, bị bộ râu quai nón và cái khuôn mặt có hàm bạch ra chà xát. Khốn nạn, không hiểu sao anh cứ nghĩ “cái thằng chó” mới thoáng gặp ở
đêm đưa đường hôm ấy có cái khuôn mặt đểu cáng rõ tới thế. Sự tưởng tượng càng rõ, càng làm anh đau đớn và căm thù ngùn ngụt. Nhưng nó thì ở xa! Vả
lại giờ có gặp nhau, anh cũng tự biết, chẳng làm gì được nó, khi chúng, lũ người ấy là “bọn thảo khấu thứ thiệt”. Anh nhìn Quyên, sao có thứ người
trơ tráo đến thế bên anh! “Đồ đĩ! Cô đúng là con đĩ!” Dũng gào lên.

Con người ta, khi ghen tuông, nóng giận dễ thường phải quay lại thời thú mang hình người. Dũng bây giờ giống như một tinh tinh đực, tâng tâng lồng
lộn khắp phòng.

Anh đập phá cho tan nát tất cả, dầu vật dụng trong phòng chả nhiều nhặn gì. Những tiếng vỡ của mấy cái cốc, cái bình thuỷ tinh đựng nước, tiếng
drap và gối bị xé, cốc chén ném vào kính, và tơ lông gia cầm nhồi trong chiếc gối tung ra, bay bừa bãi… đủ làm Quyên hoảng sợ. “Cút, xéo khỏi nơi
đây!” Dũng thét lên.

Quyên bàng không sao kể xiết. Dũng đẩy sấp ngửa Quyên ra khỏi phòng: “Đồ đĩ! Đồ đĩ! Cút ngay!”

Đó là một đêm không có tuyết nhưng rất lạnh. Trời thăm thẳm cao và tím. Quyên vội vã chạy trên hành lang bước ra ngoài nhà và ngửa mặt lên trời.
Bầu trời mùa đông lấp lánh ức vạn ngôi sao như giễu cợt thân phận của cô. Cô bỗng ngào kêu nấc lên: “Mẹ ơi!”

Quyên ngước mắt nhìn trời thăm thẳm tím ngắt khi ấy. Cô như thấy khuôn mặt của mẹ trên cao thăm thẳm hiện ra nhìn cô không nói. Nhưng cô không thể
bay về với mẹ. Cô im lặng đau đớn tới mức tưởng như không thể đau đớn hơn giữa trời khuya, bên cạnh rặng hồng có những bông hoa hết vụ đã tã tượi.
Mới sớm nay thôi, cô ngao ngán khi nhìn thấy những cánh hồng mỏng theo gió la đà rụng xuống mặt đất. Những cánh hồng rụng xuống, nhìn thoáng như
những vệt máu hồng loang lổ phẩy trên nền đất xám, còn cố thả vào không gian mùi hương không bao giờ lẫn vào mùi hương của các loài hoa tầm thường
khác.

Khí lạnh buốt giá ngấm vào tận áo trong làm Quyên bừng tỉnh. Đi đâu bây giờ? Thành phố lạ hoắc, không ai quen biết! Xung quanh toàn một màu đen
mênh mang làm Quyên hoảng sợ. Cô quay lại, ngọn đèn bên cửa ra vào vẫn toả quầng sáng vàng lạnh. Cô lại vòng lên cầu thang.

Nơi đầu hành lang, có căn phòng nhỏ khoảng sáu mét vuông, vẫn là nơi để dụng cụ vệ sinh của Frau Graumann. Cửa khép không kín. Cô đẩy cửa.

Căn phòng có cái ghế đệm hẹp. Góc trong dựng chổi, bàn đẩy lau nhà và hai ba chiếc xô nhựa. Quyên nhìn thấy con dao nhỏ và mấy cái thìa trong chiếc
cốc sứ. Chắc là của người làm vệ sinh! Quyên khép cửa và ngòi xuống đệm, chân đạp xuống nền sắt không trải thảm, lạnh ngắt. Trong bóng tối, cô ngồi
im, bất động như tượng đá. Lại nhớ tới mẹ! Trong đầu cô chợt thoáng hiện cảnh ngày cưới. Khuôn mặt tươi tắn của chồng lập tức nhoà đi và thay vào
đó là bộ mặt giận dữ và ánh mắt đầy tia lửa của Dũng khi nãy. Cô chợt nhớ tới cánh rừng có thảm lá rụng vàng ươm và căn nhà gỗ đã giam cô. Nhớ
khuôn mặt của Hùng khi gã đè cô xuống để hiếp cô lần đầu. Lòng cô bỗng trào lên niềm căm thù khôn tả lũ đàn ông khốn kiếp. Căm thù kẻ hiếp cô rồi
yêu cô, căm thù cả chồng cô, người đàn ông từng thế thốt, yêu thương…

Cuộc sống sao khốn nạn vậy? Quyên cắn môi muốn bật máu. Tại sao cô lại rời bỏ quê nhà, gia đình, nghe theo chồng chạy đi, để thân phận cô như ngày
hôm nay? Tại sao cô lại rơi vào tay Hùng và có thai, để chính người chồng, người ngày xưa cô yêu thương nhất, giờ lại khinh bỉ, hắt hủi? Trời ơi! –
Quyên nấc lên. – Giá mà cô có tiền để rời khỏi chốn này ngay lập tức, để trở về với đất nước? Quay về nhà! Cô chỉ có vài trăm bạc mà Hùng bí mật
nhét vào ví cô hôm nào và nếu đủ tiền quay về, cũng còn mặt mũi nào nữa để gặp lại gia đình cô? Bất giác khi nghĩ vậy, cô cảm thấy ghê tởm chính
thân thể mình. Quyên không khóc, nhưng tự thấy lòng tan nát, chán chường vô cùng. Vào phút giây hoảng loạn ấy, cô bỗng nhìn rõ con dao nhỏ trong
chiếc cốc. Loại dao gọt trái cây, bản mảnh, rất sắc. Cô ướm thử lưỡi dao vào móng tay và nằm xuống mảnh gỗ hẹp.

Giữa bóng tối, Quyên thầm thì: “Mẹ ơi, xin mẹ tha thứ cho con!” Cô chần chừ vài giây, rồi tì mũi dao lên nơi mạch máu xanh vẫn thoi thóp đập trên
cổ tay. Lại yên lặng một lát, dường như để suy nghĩ một lần nữa, cô quay mặt đi.

Cứa mạnh!

Phần 4

Lưỡi dao mảnh, sắc buốt cắn đứt làn da mỏng. Tại đó, nơi cổ tay trắng nõn của Quyên lập tức tứa ra dòng máu đỏ tươi. Máu tràn ra chầm chậm, nhuộn
bàn tay trắng với những ngón búp măng đang run lên, giật giật và co lại. Quyên buông thõng tay xuống sàn. Khép mắt. Cô cảm giác cổ tay đau và xót,
rồi sau đó cảm giác đau đớn bõng dịu dần, dịu dần khi nước mắt cứ chảy ra chứa chan.

Dòng máu đỏ chầm chậm loang trong lòng bàn tay, theo năm ngón tay buôn xuôi, qua ngón trỏ chảy xuống khe sát của sàn container, bò loang dưới khe
cửa ra ngoài hành lang.

Quyên chìm dần vào cõi vô cảm.

Đêm nay Kumar, người Sri Lanka đưa bánh Pizza độc nhất của thành phố trở về hơi muộn hơn mọi lần. Anh rón rén leo lên bậc thang. Đến đầu cầu thang,
Kumar chợt dừng lại. Anh giật mình nhìn thấy vệt máu sâm sẫm loang ra bằng bàn tay bên khe dưới cửa. Kẻ từ nhỏ sống giữa rừng như anh, từng bao lần
theo cha đi săn, mũi thính như mũi chó, lập tức nhận ra, cảm giác thấy mùi lạ. Mùi máu!

Frau Graumann giờ này không thể ở đây? Máu ở đâu ra? Kumar suy tính rất nhanh. Anh sống ở trại đã lâu, không lạ gì gian phòng của người lao công
già.

Kumar lay cửa. Cửa khoá trái. Kumar co chân đạp. Cú đạp rất mạnh của anh làm cánh cửa phát ra tiếng kêu sầm sầm như bom dội trong đêm. Không
chuyển! Anh lấy đà, lao cả người vào cánh cửa. Phải tới sáu bẩy lần xô mạnh vai, dồn hết sức của toàn thân dập vào cửa, cánh cửa mới bật ra.

Phòng tối om. Kumar lần mò, sờ công-tắc bật đèn.

Trước mắt anh, trên ghế đệm rộng mà Frau Graumann vẫn nghỉ trưa, một phụ nữ nằm ngửa, mắt nhắm nghiền, cánh tay trái buông thõng xuống sàn. Anh
nhìn rõ nơi cổ tay trái một vết sậm. Máu từ vết cắt ấy đang tiếp tục rỉ ra, chảy qua lòng tay, qua những ngón tay trắng nhợt buông thõng. Anh hoảng
hồn khi nhìn rõ máu tong tong từng giọt nhỏ xuống sàn nhà.

“Cứu! Cứu!” Kumar líu lưỡi thét lên, ban đầu là tiếng mẹ đẻ, sau là tiếng Việt, rồi tiếng Đức.

Cố một cửa phòng bật mở trên hành lang, rồi lập tức laị đóng sầm lại. Cảnh huống trại tị nạn về khuya, nhiều lần rồi, vẫn có lắm gã Chí phèo nào đó
uống quá say và quậy phá làm tiếng kêu của Kumar thỏm chìm trong đêm tối.

Kumar chợt nhớ tới số máy cấp cứu và móc điện thoại. Gọi điện xong, anh xé vạt áo đang mặc ga-rô chô người đàn bà kia. Xong, anh chạy đi đấm ầm ầm
vài cửa phòng gần đó. Cửa phòng Dũng bật mở, Kumar nhìn thấy Dũng cầm chai rượu ngước mắt vô hồn nhìn anh. Kumar thất vọng, đóng sầm cửa lại: “Còn
có ai không? Cứu…” Tiếng anh cô độc vọng dài trong hành lang hẹp, tối đen hun hút.

Cửa phòng bật mở “Gì thế? Không để người ta ngủ hả?” Một cái đầu bù xù ló ra, rồi cửa lại khép chặt im lìm.

Chỉ khi có tiếng hú còi hoảng hốt, ánh đèn chớp loạn xạ của xe cấp cứu bên ngoài khu nhà, đám người Việt trong trại mới nhốn nháo ùa ra như ong vỡ
tổ. Họ tụ tập, chỉ trỏ theo chiếc băng-ca cấp cứu. “Vợ thằng Dũng chửa hoang tự tử rồi!” “Đ.mẹ, lại ăn vạ!” “L.! Đang đóng gạch mất cả ngon”.

May mà Kumar không nghe được những lời ấy, anh chạy bên chiếc xe băng-ca hối hả đưa Quyên ra xe cấp cứu.

Xe cấp cứu rời trại mới thấy cửa phòng Dũng mở ra. Người ta nhìn rõ một dáng hình xộc xệch lao đảo bước, trên tay chai rượu đã cạn gần hết. Dũng
không hiểu điều gì đã xảy ra khi ấy, anh vung vẩy chai rượu đi dọc hành lang. Đám người Việt đồng hương trông anh như một con quái vật và tránh xa
anh. Dũng lia chai rượu về hướng họ, lè nhè nói: “Chúng mày, tất cả chúng mày… lũ khốn nạn…”

Không ai còn muốn dây dưa với một gã Chí Phèo. Hơn nữa, cũng không ai muốn vướng víu, rắc rối với một vụ tự tử. Tất cả các cánh cửa sầm sầm đóng
lại, để hành lang còn chơ vơ một kẻ loạng choạng say, đi mà chẳng biết đi đâu.

Trên bãi trước trại tị nạn, khi người bác sĩ cấp cứu định khép cửa hậu xe, Kumar vội trèo lên ngồi bên Quyên. Thực sự khi đó, anh mới nhìn rõ mặt
Quyên. Khuôn mặt Quyên không cò hồng hào nữa. Đôi mắt khép khe khẽ động đậy và hàng mi cong đen chớp chớp. Cô như đang ngủ. Anh chợt nhớ tới cảnh
chị anh thiêm thiếp chờ chết, mà bàn tay chị vẫn cố nắm chặt bàn tay anh. Hình như trước khi chết, người ta đều sợ đồng loại bỏ đi, sợ cô độc trong
phút giây đầy luyến tiếc cõi sống, dù có người khi sống chẳng hơn gì một con vật. Còn cô gái xinh đẹp này, sao cô ta lại chán sống?

Sớm sau Frau Graumann tới làm việc mới biết sự việc có một cô gái Việt Nam nào đó tự vẫn ở phòng mình. Bà làm dấu thánh. Graumnn đến bên cái giường
nghỉ trưa của mình. Bà nhìn xuống đất. Vệt máu còn đó đã chuyển màu sẫm như tiết gà, tiết vịt. Trời ơi, sao lại có thể huỷ hoại chính thân xác của
mình. Bà lại không hiểu thêm một điều nữa. Khốn nạn là khi cúi xuống lau vệt máu bằng nước tẩy Plil, mùi máu tanh xộc lên làm bà suýt ngất.

Trong hồ sơ y vụ của Bệnh viện thành phố Goldberg, có ghi rõ một trường hợp cấp cứu khá đặc biệt. Người ta đưa về bệnh viện, khoa Sản một bệnh nhân
có thai gần tới ngày sinh nở. “Thai đã trở ngôi. Sản phụ trong tình trạng mất máu trầm trọng”. Giáo sư, bác sĩ trưởng bệnh viện Stemberg quyết định
phải xử lí các biện pháp cấp cứu mẹ và đồng thời mổ ngay để cứu lấy đứa trẻ. Người mẹ không còn sức rặn, đứa trẻ có thể chết, nếu không giải quyết
như vậy.

Đứa bé gái được cứu sống. Nó như con chuột nhỏ, xanh tím và bàn tay nhỏ xíu loe ngoe cũng tím ngắt. Lúc ấy nó trong bụng mẹ ra, mắt nó cứ nhắm
nghiền, Cho mãi tới khi người ta bắt đầu dùng ống thổi khí ấm, làm sạch nhớt nhãi trên người, sinh linh mới mở to mắt và khóc ré lên.

Quyên rơi vào giấc ngủ triền miên từ đêm đó.

Bệnh viện đã cử người Sở ngoại kiều để hỏi về nhân thân của Quyên. Họ tìm cả tới trại. Không một ai cung cấp thông tin về Quyên một cách rõ ràng.
Người ta tìm Dũng. Cửa phòng vẫn mở. Đồ đạc còn nguyên. Cả một ít tiền trợ cấp hàng tháng của Dũng, kiểm đếm còn hai trăm sáu mươi D.mark, gói
trong một phong bì, nhét dưới xấp quần áo nhàu nát. Không thấy Dũng!

Những người Việt khai rằng, đã cả tuần nay, sau cái đêm Quyên tự sát, chẳng ai nhìn thấy anh.

Dũng đi đâu? Nhiều dự đoán của đám người vốn hay buôn chuyện! Mọi thứ dự đoán, sáng tạo tình huống của đám người rách việc còn tài hơn cả sự sáng
tạo của các nhà văn kinh dị, mạo hiểm.

Nó lang thang trên phố. Đi giữa đường xe hoả, bị tan thây ở Nam thành phố.

Thằng cha điên ấy nhảy xuống hồ băng lạnh, ba hôm sau xác nổi lềnh phềnh. Đầu, mặt và chim, cả một phần tay chân bị cá rỉa, nom chẳng ra ngợm cũng
chẳng ra người!

Nó rơi vào tay một băng cướp người Việt đang đi tìm một thằng tên Dũng trên Berlin để trả thù. Bị lôi vào rừng chặt tay, khoét mắt, sau chôn sống
rồi.

Tất cả những tin đồn thổi ấy chẳng có bằng cớ gì, nhưng lại dựa trên những sự thật tương tự đã từng xảy ra ở đâu đó trong cộng đồng người Việt, nên
làm khối kẻ nửa tin nửa ngờ. Song sự thật thì Dũng vẫn mất tích, mà chưa có thông báo chính xác nào của cảnh sát thành phố, kể cả sau đó, trong
suốt một năm, dù người ta đã dán ảnh Dũng khắp nơi để tìm kiếm.

Có thể anh ta đã chết rục trên một góc rừng hay một hè phố nào đó, rồi người ta cho quàn xác để thiêu thành tro. Trước khi thiêu, trong phòng có
những ngăn lạnh, Dũng sẽ được ngoắc vào ngón chân một mẩu giấy, đề hai từ: vô danh? Hay Dũng còn sống mà lưu lạc, dạt trôi như cánh bèo, để những
lòng phố chày ngồn ngộn người và người kia cuốn mãi anh đi… Điều đó, bố ai mà lần, vì châu Âu rộng lớn quá, đông người lắm! Một người không giấy
tờ tuỳ thân như Dũng, lại là thứ châu á nhược tiểu tị nạn, thì sinh mạng khác gì hạt bụi. Là bụi phải theo gió bay thôi! Có thể một chiều hạt bụi
lặng dạt xuống một nơi nào đó, với ức vạn hạt bụi khác, chồng kế lên nhau, đọng thành vạt bụi. Cuộc sống cuồn cuộn của thế gian xưa nay vốn mãi
vậy. Một người đang say, đang đau khổ tới mất trí như Dũng, thì mọi sự đều có thể, ai mà biết được! Vì thế, câu hỏi “Dũng đi đâu?” cũng chỉ lưu
trong trí nhớ mọi người một tuần, rồi chả ai buồn nhắc lại.

Giấy chứng sinh do vậy chưa làm được, nhưng Kumar cứ thản nhiên nhận đứa trẻ là con mình. Không hiểu sao, anh lại gọi tên đứa trẻ theo tiếng Việt
là Vân. Vân là gì? Có một tay bác sĩ hỏi. Vân là mây! Thanh Vân – Nó là áng mây xanh trên trời. Nó là hi vọng, niềm khao khát của tớ, của mẹ nó,
hỏi gì nữa không nào?

Thực ra, ban đầu anh chưa có tình cảm gì sâu sắc với đứa trẻ, nhưng khi ngày nào cũng vào thăm mẹ con Quyên, tình cảm của Kumar với cái sinh linh
có đôi bàn tay nhỏ xíu hồng hồng và đôi mắt đen lay láy luôn đăm đăm nhìn anh, cứ lớn dần lên. Nó, điều ấy như hạt lộc vừng bé xíu rơi vào đất ẩm,
nứt ra mầm xanh bé tí tẹo tèo teo mà gặp đủ duyên, nước, khí, ánh sáng, vù vù lớn lên như thổi. Rất tự nhiên, anh mang tình cảm ấy vào trong giấc
ngủ và bỏ hẳn thú câu cá trong ngảy nghỉ để vào với nó trong bệnh viện. Người ta thấy anh hay ngồi yên lặng hàng giờ bên Quyên, như khi anh im lặng
bên bức tượng Phật nhỏ trong nhà. Nhưng thực ra, anh muốn nói chuyện rất nhiều với Quyên khi cô thiêm thiếp ngủ. Một tối về nhà, chợt nhới tới mẹ,
Kumar nhìn lên bức tượng Phật và quỳ xuống. Một mong muốn từ đâu, sâu thẳm trong anh bật lên, thoát ra: “Người hãy giúp con, cho Quyên tỉnh giấc!”
Anh cứ ngồi như vậy khá lâu, mặc đầu gối tê dại. Kumar tự biết, Quyên chẳng họ hàng thân thích gì, nhưng từ vô thức mách bảo, cho anh bật ra ý nghĩ
ấy và, có thể đó là hệ quả của sợi dây liên hệ vô hình buộc anh vào với hai mẹ con Quyên. Đôi khi anh chợt tự vấn: hay từ duyên kiếp nào chăng?

Kumar không phải là khách lạ của bệnh viện này. Cửa hàng nơi anh làm thuê là cửa hàng nướng bánh Pizza ngon nhất thành phố, nên bấy nay, trong
nhiều năm, anh thường tới đây đưa bánh cho những người khoái bánh Pizza. Anh đi lại, giao dịch trong bệnh viện như vào nhà mình.

Cùng uống cà-phê ở phòng ăn hôm đó với anh, có bác sĩ huyết học Laler, là người cũng vui tính, bảo: “Kumar này, ba năm nay, tớ lại gì cậu! Cậu cứ
nhận vơ đứa bé là con. Tớ biết tỏng, nó không phải là con cậ!” Kumar bỏ cốc cà-phê xuống, anh thừa biết luật pháp nước Đức! Trong cảnh huống này,
khi anh tự nhận là cha đứa trẻ, không ai đựơc quyền xét mẫu AND để tra tìm: ai là cha đứa trẻ? Kuma nghĩ một lát rồi nói: “Anh nhầm rồi, Nói là con
tôi đấy. Nền y học của các anh hiện đại, tiên tiến lắm. Các anh có thể xét nghiệm AND ngay lập tức. Nhưng ai bảo điều ấy là tuyệt đối đúng? Hay anh
thấy nó da vàng mà nói vậy. Anh hãy giải thích cho tôi đi, tại sao da tôi lại đen, đen toàn thân như vậy mà riêng lòng bàn tay tôi lại vàng? Kumar
nhổm lên, thản nhiên xoè bàn tay ra trước mặt mọi người: “Đây, anh và các quý ông, quý bà nhìn xem, màu này có giống màu da của con tôi không?”

Quả thật, lòng bàn tay Kumar là nơi duy nhất có màu da như dân châu á. Đó là điều mà không mấy ai để ý và thực không thể giải thích được một cách
dễ dàng, khi tất cả những người da đen đều có đôi bàn tay tương tự như vậy. Mấy người trong bàn ăn cười ồ lên và bác sĩ Kaler ngớ mặt ra. Chính
Kumar cũng không ngờ anh có câu trả lời nhanh nhảu, làm tay Kaler không phản biện ngay được. Điều đó làm anh vui suốt cả ngày hôm ấy, cả khi anh
phóng xe mô-tô dưới mưa đưa bánh, anh vẫn huýt sáo với bộ mặt tươi tắn làm sao.

Mãi gần hai tháng trời trôi qua, tự dưng người mẹ trẻ Việt Nam – Quyên – tỉnh giấc. Những người trực hôm đó thực sự bất ngờ và khó giải thích vì
sao? Vì sao một người đàn bà, sau phẫu thuật cứ mê mệt, sống một đời sống thực vật mấy tháng, giờ đây lại bất ngờ bừng tỉnh?

Quyên không hề biết cô đã có một giấc ngủ dài bao nhiêu ngày. Khi tỉnh giấc, cô lơ mơ nhận ra trước mắt mình là một khuôn mặt có đôi mắt xanh to
dịu dàng và nụ cười đơn hậu. Quyên nhìn thấy rõ dần những sợi tóc màu vàng nâu rủ xuống. Cô giơ tay lên cố đụng vào những sợi tóc mảnh ấy, nhằm xác
định đó là mơ hay thực. Cô buột một câu tiếng Việt và chợt nhớ ra, cô đang ở Đức. Quyên bật ra câu tiếng Anh khá chuẩn: “Tôi đang ở đâu?” Bà đương
ở bệnh viện của thành phố”. – Đôi môi đậm son mấp máy trước mắt cô. Quyên nhắm mắt lại.

Tại sao lại ở đây? Bất giác cô đưa tay xuống bụng và hốt hoảng bật ngồi dậy: “Con tôi đâu rồi?”

Cửa phòng sịch mở.

Kumar, chính là Kumar bước vào phòng, chứ không phải chồng Quyên. Đôi mắt anh sáng rực trên nền đen của làn da mặt và, miệng anh nở bừng một nụ
cười tươi lắm. Tới bên Quyên, Kumar nói: “Kìa em đã tỉnh dậy rồi!” Em có biết, em đã ngủ bao nhiêu ngày rồi không?” Ngủ bao nhiêu ngày?” Quyên bàng
hoàng cảm giác thấy chân và tay cô nhẹ như bấc.

Khuôn mặt đen sậm của Kumar làm cô sợ. Sợ nhất là trên cái nền đen bóng ấy, đôi mắt Kumar trở nên trắng, ánh lên, lấp loáng như ma trơi.

Quyên nhắm mắt. Cô không muốn nhìn Kumar thêm nữa và nhớ lại, hồi tưởng lại những gì đã diễn ra, cả việc cô quyết định chết để quên đi tất cả.

Trong khi đó, Kumar mừng khôn xiết. Việc Quyên bất ngờ thức dậy làm anh quên cả về nhà để ngủ. Anh cứ lăng xăng bên Quyên, rồi lại chạy đi mấy
phòng có người quen để báo tin. Giáo sư bác sĩ trực của bệnh viện thấy anh bắng nhắng, ngây thơ như con chim nhỏ cũng không nỡ mắng anh đã làm ồn
như vậy.

Chỉ mãi khi khuya lắm rồi, người ta tỏ ý buộc Kumar phải ra về, anh mới chịu rời giường Quyên. Trở về nhà, anh cũng không ngủ ngay mà ngồi dưới
tượng Phật một lát. Anh hoàn toàn tin rằng, chính Người, chứ không phải ai khác, đã phù hộ cho mẹ con Quyên. Trong đêm tối, Kumar mắt nhắm nghiềm,
nhưng đôi môi thì tươi như hoa. Anh ngồi hoà chìm vào bóng đêm như thế tới tận bốn giờ sáng mới ngả lưng.

Quyên không thể ở bệnh viện thêm giờ nào nữa. Đã ba bốn ngày nay, cứ chợp mắt là cô lại rơi vào một giấc mộng hãi hùng, để khi tỉnh giấc Quyên vẫn
nhớ rõ như sự thực vừa xảy ra.

Bóng đen từ đâu tiến ra và dừng lại trước giường con gái của Quyên. Cô nhìn rõ khuôn mặt của hắn sẫm đen và cái lưỡi đỏ lòm thò ra thụt lại trong
đêm. Hắn nhìn cô cười, phô hàm răng trắng ởn, và cô thấy khuôn mặt đó thay đổi một cách khó hiểu. Có đêm cô tỉnh dậy rồi vẫn nhớ rõ, đó là khuôn
mặt hớn hở khi cắm sau “thỏi sắt nguội” vào cửa mình cô ở khu rừng biên giới; có khi lại thấy khuôn mặt đó từa tựa Dũng, bởi đôi mắt của gã đầy
những tia máu, hằn học và dữ tợn. Lại có lúc không phải những khuôn mặt mà cô đã biết. Đôi mắt trân trân nhìn rất dịu dàng nhưng không mang lại cho
cô sự bình yên, mà trái lại càng làm Quyên sợ hãi tới hoảng hốt khi hắn cười phô răng nanh nhọn hoắt và đôi môi đỏ sắc máu. “Thằng da đen Kumar!”
Có hôm cô bật dậy khẳng định. Trong cơn mơ trước đó vài giây, cô thấy hắn bế đứa con của cô lên tung trên cao, rồi xé đứa bé làm hai. Cô nhìn rõ
hắn nhai rau ráu đôi tay hồng nõn bé xíu của con gái và tiếng trẻ khóc thét lên thảm thiết…

Quyên thường cố thoát khỏi giấc mơ hai hùng ấy và vùng dậy, bàng hoàng nhận ra mình đang nằm trên nệm. Cô quờ tay, quơ tấm chăn mỏng quấn lên
người, che cả mặt. Cô vẫn thấy tim đập thùng thùng liên hồi, gấp gáp. Ba bốn đêm như vậy. Thường là cô không thể kìm nén được nỗi sợ gần như hoảng
loạn, dẫn đến tình trạng không biết đâu là mơ, đâu là thực. Ngay sau đó vài giờ, hồi tâm lại, biết đó là mơ, cô nhón dậy, rón rén đi sang phòng
con.

Tại phòng ấu nhi, Quyên đặt bàn tay lên vùng ngực, nơi trái tim cô đang hồi hộp đập. Cô thở thượt, lả đầu sang trái, khi vẫn nhìn thấy đứa trẻ ngủ
ngon lành và chúm chím cười thơ ngay trên ga đệm trắng tinh. Nhìn thấy rõ sự an lành của đứa con, mà cô vẫn không sao thoát ra khỏi trạng thái lo
lắng và cứ ngồi canh chừng bên con tới quá nửa đêm. Có đêm, cô ngủ gục bên chiếc nôi, tận tới khi có người trực bệnh viện đi kiểm tra hay cho trẻ
ăn phát hiện ra, đánh thức cô dậy.

Bất an! Cô cứ sống triền miên sau những cơn mê, trong trạng thái như vậy tới bao giờ? Mấy đêm Quyên thật sự không dám ngủ nữa. Mỗi khi Kumar vào
thăm, cô để mắt tới con hơn và rùng mình khi nhận ra, đôi môi Kumar hồng như có sắc máu. Phải tránh xa con người này. Tại sao hắn lại săn đón tử tế
thế?

Đêm nay cô phải trốn. Sự ám ảnh của khuôn mặt Kumar làm cô sinh ra ý nghĩ ấy. Cuộc di dời qua biên giới, bị giam gần năm trời và hành xác tới khi
có thai, cuộc gặp gỡ khốn nạn với chồng, cái đêm cắt mạch máu cổ tay tự tử… những sự kiện nối theo nhau xảy ra làm cô trở thành kẻ có trạng thái
không bình thường chăng? Thôi, đời cô ra sao cũng được, nhưng không thể để con cô rơi vào một tình trạng không yên ổn, bị đe doạ.

Cô lấy thêm một vài lát bánh mì trong bữa ăn tối và một quả táo cất vào tủ con. Cô lén lấy cắp những chiếc tã giấy để trên bàn y tá, gói gọn,nhét
dưới đệm nằm. Tiện tay, cô cầm thêm gói sữa bột. Sữa còn rất ít, nhưng đào đâu ra nữa? Gian chế biến đồ ăn đã khoá lại. Mà nơi ấy cũng chỉ là nơi
để thức ăn, đồ uống cho trẻ sơ sinh, do một công ty chuyên chế biến thức ăn không nằm tại viện mang tới. Không sao, rồi sẽ tìm ra cách! Giá như
mình có sữa? Cô vạch vú mình trong nhà vệ sinh, ngắm soi trong gương. Hai bầu vú của cô vẫn trắng hồng, có cương lên một chút ít so với ngày nào cô
còn thanh tân, không hề thay đổi quá nhiều như những phụ nữ có con khác. Vẫn hy vọng, cô cố nặn đầu vú hồng hào nhỏ như ngón tay út. Quyên hơi nhăn
mặt. Nơi đầu vú rỉ ra thứ nước đùng đục. Chẳng phải là sữa! Sao chán thế? Lòng Quyên trào lên nỗi thất vọng xa xót. Quyên ném phắt tờ giấy lau đã
thấm chút nước đùng đục vào thùng rác.

Cuộc chạy trốn diễn ra đúng như ý muốn của Quyên.

Tám giờ tối lúc giao ca của bệnh viện. Quyên len lén cầm bọc giấy mà trong đó có dăm thứ lặt vặt cho đứa con. Sang buồng đứa trẻ, cô quấn lấy con
trong một tấm chăn nhỏ và bế thốc nó lên khi con bé còn đang thiêm thiếp giấc nồng. Dọc hành lang không có bóng người! Cô mở cửa, len lén tới bên
cầu thang máy. Thời gian chờ thang máy mở cửa quả là dài. Cuối cùng cửa thang máy cũng mở ra để Quyên chui nhanh vào, khi tim cô đập liên hồi như
trống trận.

Ra tới đường phố, Quyên cứ thông thốc bế con đi như chạy dưới những rặng cây bồ đề vừa trút hết lá vàng. Tới khi bàn tay Quyên mỏi rã rời vì đứa
con trên tay, cô mới dừng lại dưới một cái hiên để thở. Phố vắng tanh và cô chợt nhận ra mình khát. Cô mở chiếc chăn quấn con gái. Đứa trẻ thức
giấc từ bao giờ. Đôi mắt đen thau tháu, thao láo nhìn Quyên. Đây là máu của cô, thịt của cô, một phần cơ thể của cô vừa tách rời khỏi cơ thể cô. Nó
đã từng chia sẻ bao nhiêu ngày buồn đau, suốt chín tháng mang nặng bấy nay đấy thôi! Nghĩ thế, cô bỗng trào nước mắt rồi cúi xuống áp nhẹ đôi môi
lạnh vào má, vào đôi hạt nhãn đen tuyền của con. Nụ hôn giữa phố phường vắng tanh, lạnh lẽo, thật tha thiết, nghẹn ngào.

Người đàn bà cách đây không lâu chán sống, đã tự cứa dao vào cổ tay mình, giờ đây lại ham sống. Quyên hít một hơi cho không khí lạnh tràn vào ngực
mình và ôm chặt lấy con, ngẩng mặt lên trời như cao ngạo thách thức: “Con ơi, mẹ con mình sẽ phải sống. Phải vượt qua tất cả để sống!” Quyên tự
cười nhạo mình trong đêm. “Giữa thành phố này, một mình – kẻ cô độc, mày chán sống. Còn giờ đây mày có hòn ngọc bé xíu đây rồi. Đó chính là nguồn
sinh, mạch sống của mày”. Một sức mạnh vô cùng lớn lao đã vụt hiện, trở nên một sức mạnh vô biên, để không thể có việc gì, dù gian lao nguy hiểm
tới mấy, làm cô chùm bước. Phải sống, vượt lên!

Quyên đi băng qua đường, chẳng cần tìm nơi có những vạch trắng ngang dành cho người đi bộ. Tới cửa tiệm, cô đắn đo một chút rồi đẩy cửa.

ở thời điểm ấy cô cũng không thể nào biết, cũng ngay trên khu phố cô đang đứng, nơi bên kia, trên một đường phố song song, có một người đen như bồ
hóng và chiếc mô-tô có dòng chữ Pizza tươi màu vàng cam, đang buồn bã chầm chậm chạy về nhà. Trong lòng anh ta miên man nghĩ tới cô và đứa trẻ. Anh
ta cũng không thể nào biết rằn, Quyên và con cô, hai người anh đang tìm, cách anh chỉ một hàng cây. Một hàng cây thưa, trong cuộc trôi nổi bèo bọt,
thân phận như tro, như bụi, như cát của người ta, là sự ngáng trở tầm mắt – dù hết sức vô tình – làm mất đi cơ hội cuối cùng nhìn thấy nhau để gặp
gỡ, đã buộc họ rẽ ra làm hai ngả chia xa.

Cả hai đều không biết điều ấy, nhưng bầu trời biết, mặt đất biết. Sự biết không chỉ là qua những tiếng động của từng bước chân, hay vệt xe lăn làm
vỡ đám băng muối lổn nhổn lạnh cứng, lạo xạo trên mặt đường đen láng, mà đó là cả một quá trình theo dõi diễn tiến hành vi cả hai con người ấy.
Những vì sao lặn muộn hay mọc muộn đêm nay cũng biết và, dường như chúng đang nhấp nhánh giễu cợt những vết di dời lạc loài của Quyên và Kumar,
trong sự thử thách lòng kiên nhẫn của bản ngã, tính thiện của con người, trên con đường hành hương của mỗi số phận hướng về bản thể của chúng sinh.

Đường phố vào khuya lặng thinh, không một bóng người. Những đám mây nhỏ, xám, nặng trĩu nước, bay rất thấp, chập chờn hiện ra trong quầng sáng hắt
lên của thành phố. Nhìn chúng bay ngang qua trăng non ung ủng vừa mọc ngang nóc nhà, người ta có thể biết, sự báo hiệu, có thể trời sắp mưa

Chủ quán ăn nhanh tên Phi. Ban đầu, ngày gã mới ở Đức, dân chợ thành phố ngoắc cho gã thêm một hỗn danh, gọi là Phi Bẩn.

Thực ra tên đầy đủ ghi trong hộ chiếu là Nguyễn Văn Phi

Khi mới sang Đức, gã hoàn toàn bình thường như trăm ngàn người khác, không có những trạng thái bệnh lí, kể cả tiền sử. Điều đó được ghi rõ trong
tập hồ sơ của cơ quan y tế thành phố lập ra, nhằm theo dõi, chăm sóc những người tới sống lâu dài trên nước Đức.

ở Việt Nam, Phi là giáo viên dạy nghề tại một trường ven ngoại thành Hà Nội. Phi sang Đức ở dạng ăn theo vợ. Không phải diện Xuất khẩu lao động,
rồi được ở lại như Thị – vợ gã.

Thị là dân Công nhân xuất khẩu – Thợ khách của nhà máy bóng đèn Đông Đức. Thị không đẹp lộng lẫy, nhưng là typ có ma lực với đàn ông. Nghĩa là vẻ
ngoài không phô phang rực rỡ, nhưng Thị trắng, phổng phao. Làn da Thị mịn mát, ai lỡ chạm tay vào như thể sờ vào miếng thạch. Thị có khuôn mặt ưa
nhìn, má phấn, mắt cười, đôi mắt có đuôi. Khi cười mắt, môi, miệng… đưa nhịp lúng liếng. Ma mị lắm! Nhất là khi Thị ở phía trên, tóc bồng bềnh
xõa xuống, mắt trở lên đen them, bí hiểm, sóng sánh như đêm tối… Trời sinh ra thế! Thị làm ai đã dính vào, tất dứt không ra.

Năm đầu sang Đức, mới nửa tháng, Thị gá với một tay chuyên có mối đánh hàng lụa, sống tận Chemnitz. Gã này có tên cha mẹ đặt cho, nhưng bạn hàng,
cánh bán lẻ ở các đội, cứ réo đại lên là thằng Tơ lụa. Biệt danh gọi lâu ngày thành quen, gã cũng chẳng thèm phản ứng với bàn hàng khi họ đưa về
cho gã hàng thắng dăm ngàn Ostmark.

Thứ Bẩy, Chủ nhật nào Tơ Lụa cũng từ cái vùng núi lạnh giá ấy lọ mọ tới.

Gã xấu giai, mặt như lưỡi cày lại cao lênh khênh, nên cáI gì trên người cũng dài. Đôi tay vượn cắp theo súc lụa, là thứ hàng được giá khi ở nhà.
Lụa Đức tốt, trơn, bền màu. Đám đàn bà con gái ở Việt Nam bấy giờ, ai ai cũng thèm muốn có một mảnh lụa Đức hai mét, để may quần ta đen.

Buồn thay, Trời cũng chỉ dành một thời gian nhất định cho Tơ Lụa hái ra tiền. Việc khuất tất như cái kim trọng bọc lâu ngày cũng có bữa lòi ra! Cửa
hàng trưởng người Đức ăn của đút, chuyên buôn lụa cho gã, bị cảnh sát kinh tế Đông Đức tóm.

Mối lụa đứt, Thị cười cười, nói với đám gái sồn sồn hay đàm tiếu về đàn ông: “Dương vật thằng ấy dài như con khăng, khó chịu tới chế”.

Hai tuần sau, Thị để mặc Tơ Lụa ngồi rình ở cổng nhà máy, đầu Wohn hết thứ Bẩy này tới thứ Bảy khác. Một tháng dòng, gã Tơ Lụa mới hồi tình, dứt
được ra. Cũng đau đớn lắm! Sau trận chửi thề cuối cùng, dài tới hơn hai giờ, đứng ở ngoài cửa phòng đã khóa chặt của Thị, gã lồng lộn, hăm dọa, đấm
vào cửa phòng Thị ầm ầm và bảo, sẽ băm Thị ra làm đôi… Hăm dọa chán mà chẳng làm được gì, vì Thị đã cố thủ trong phòng, Tơ Lụa ngửa mặt thở dài,
thôi lồng lộn, dù lòng còn đầy căm hờn, mặt dư đầy sát khí, vẫn phải ấm ức, hậm hực lên tàu xuôi về Chemnitz đúng giữa đêm tuyết gió thổi ào ào,
trắng xóa.

Tơ Luạ bặt tin từ đó!

Vài tuần sau, Thị hớn hở lôi về một thằng đàn ông làm phiên dịch ở Berlin. Thằng gá thứ hai này, nghe Thị kể, là thứ giai nom hào hoa, phong nhã.
“Nhưng mặt lạnh như bom. Kiêu lắm! Chẳng thèm nhìn ai bao giờ”.

Thằng này thường đến với Thị vào lúc nhập nhoạng tối. Thoắt một cái, gã lẩn mất hút vào sau cánh cửa nhà Thị rồi tới sớm, mặt trời chưa lên, đã lên
ô tô vỏ giấy nện, hiệu Trabi, lặn vèo ngay về Berlin. Vậy nên ít ai tỏ mặt, tường tên. “Nhưng nó chẳng được như đứa đầu!”- Thị ca cẩm. – “Nom tốt
mã, to con mà bấy! Sộp lắm! Ra gì đâu, cắn vào, tanh như trái lê non đầu hè! Nửa đường cày đã đứt gánh”.

Nói vậy, nhưng bọn họ vẫn dan díu với nhau nửa năm, vì tay này có đường dây hàng cao cấp với VIP. Hàng tuần khuân về cho Thị vài hộp băng Sony,
rượu Napoléon, thuốc 555… bán quanh trong đội Thị và ra mấy đội lân cận.

Bức tường đổ! Tay phiên dịch nước mắt lưng tròng chia tay Thị về nước. “Trái lê non đầu mùa” vừa quay gót lên xe về Berlin, Thị cười nhạo, quay mặt
vào tường, liếm môi, đếm sấp USD thơm mùi mực. Tiền gã kia vừa đổi hộ Thị ở trung tâm West, nơi có Nhà thờ cụt.

Nửa tháng một mình, Thị thường chép miệng, đôi khi than vãn thở dài.

Tháng sau, Thị lại cười như Fach khi đã móc lên, một tay kém Thị gần chục tuổi, ở chợ thuốc ga Karhshorst, thuộc Đông Berlin, nơi người Việt, đủ
thành phần trong các đội Thợ khách sắp hồi hương, nhốn nháo đêm đêm đón tầu hàng từ đám dân Poland tràn sang, mang theo đủ loại hàng rẻ tiền lậu
thuế, trong lúc Đông Đức hỗn quân hỗn quan, phía Tây còn đang ngỡ ngàng, chưa đủ sức tiếp quản thị trường bán lẻ rộng lớn, đầy khe hở, bỏ ngỏ bấy
nay, vì ở thời điểm những âm mưu chính trị quan trọng hơn cả việc kinh doanh.

Hắn tên Y

Y sang Đức ba năm mà cổ vẫn đen cháy. Khỏe và trẻ! Đấy là ưu điểm của kẻ thứ ba. Đàn ông chung phòng, sau một tối bảo, thằng này cả hơi, nặng mùi
đéo chịu được! Người tong trải nhận xét, đàn bà thích gã, vì đông cũng như hè, Y luôn sực ra toàn mùi đực. Thứ này khỏe như trâu và dai như chão!

Ai cũng biết chuyện Thị với gã đực non này. Ngày họ chị chị, em em, nhưng đêm cấm có they ló mặt khỏi phòng. Từ ngoài, có điếc lòi điếc nổ vẫn nghe
rõ trong phòng vọng ra rõ mười mươi tiếng giường đệm vặn răng rắc như sắp gẫy. Tầng dưới lại they: cứ ình ịch như ai đó giã giò. Chả cần áp tai vào
cửa cũng nghe thấy tiếng rên rỉ, rút rít; khi như ai oán, lúc vang cực lạc; tựa hồ trong nhà có nhốt đôi linh miêu đang cơn động tình. Nhưng thế mà
chả biết mèo nào cắn mỉu nào! Một tháng qua đi giai tơ tên Y mặt mày bạc phếch, còn gái già tên Thị lại hồng hào, phởn ra trông thấy, sắc diện rõ
nồng nàn, sóng sánh như con gái tuổi xuân thì ngồi bên lửa.

Vốn liếng hòm hòm thì nạn cướp phách nổi lên. Thị tính, buôn thuốc lãi suất rất cao, nhưng trước nạn cướp phách người Việt, cứ rình rập đám bán
thuốc lá lậu đồng hương ở khắp nơi, thì thực vô vàn nguy hiểm. Không khéo cốc mò cò xơi! Vả lại, khi có nguồn thuốc quân đội Nga cũng chớm cạn. Thị
quyết định ăn non, bỏ hẳn buôn thuốc lá lậu, xoay sang đi học nghề xào mì ở một Imbiss. Học xong nghề, Thị rời Y, chạy sang phía Tây, tìm địa điểm
mở một quán ăn nhanh.

Có loại người như Thị, tuy chẳng học hành nửa ngày về nghề buôn bán, nhưng lại khéo học lỏm bắt chước. Thị theo dõi quán Imbiss của một đồng hương
Việt Nam hai tuần, rồi chọn chỗ, thuê ngay một địa điểm rất gần đó, diện tích rộng hơn, đầu tư tiền dựng quán, cho khách ăn trưa có bàn ghế, không
phải sơi đứng, lại trong nhà ấm. Ngay khi bắt đầu khai trương, ngày mở hàng, Thị giảm giá mì xào. Mỗi đĩa mì xào của Thị bán cho thực khách chỉ
bằng nửa giá của quán bên cạnh, nên quán ăn của Thị lập tức mau chóng hút khách, chiếm gom hết đám khách ăn trưa của người đồng hương quán bên. Sau
hai, ba tháng mất khách ruột, trở lên vắng teo, quán kế bên không trụ nổi khi chi phí tiền thuê nhà quá cao. Thói đời tham rẻ mà. Thực khách tham
đĩa mì to vật vã, khói thơm ngậy bốc lên nghi ngút, toả lan trong nhà ấm. Chỗ ăn lại có bàn ghế và lời chào ngọt hơn cả mía lùi, thế là người ta cứ
ùn ùn từ quán cũ bỏ đi hết sang quán mới mở của Thị. Quán đối thủ của Thị tuyên bố đóng cửa.

Nghe tin quán bên sập tiệm, Thị xoa đôi bàn tay mũm mĩm, cười, ráo hoảnh nói lạnh tanh: “Thương trường là chiến trường!” Nói xong Thị phẩy tay.
Động tác Thị y như mỗi khi thẩy xiên áo cũ vứt tọt vào góc nhà, hay như dạo bứt được nhân tình đã hết đát sử dụng…

Ngày quán kẻ đồng hương yểu mệnh dọn đi, Thị sai người sang, nói là người nơi khác tới, mặc cả dóng riết, mua lại hết dụng cụ xoong, chảo, nồi và
dụng cụ làm bếp của quán cũ. Giá mua rẻ như cho. “Ném vào kho, có ngày lại dựng thêm quán mới!”. Thị cười khẩy nói với đám nhân viên khênh đồ mua
lại từ trên chiếc xe chạy vòng qua một phố, rồi về quán Thị theo lối cửa sau.

Ban đầu, cậu em của Thị quyết không đi. Theo Y, nguồn thuốc lá của nga cạn thì tìm nguồn khác. Sống ở Berlin ba bốn tháng, nghe đâu Y cũng cặp với
một cô bé trẻ, khá xinh xẻo, xong Y vẫn không quên được “người đàn bà năm bờ oăn”, đầy đủ kinh nghiệm đã dẫn Y vào tình trạng cực khoái một cách
thoả mãn nhất. Nhớ nhau, đêm đêm Y và Thị điện thoại buôn dưa lê. Cả hai, cố áp sát tai vào máy, tay không quên đụng đậy thọc xuống dưới. Hai đứa
cách nhau hơn bốn trăm cây, đều trong trạng thái người đong đưa như lắc chảo.

Đàn bà có hạng siêu, chỉ cần giọng nói thủ thỉ, dầu xa nhau thăm thẳm, cũng vẫn đủ tài làm thằng đàn ông đã biết mùi cái, cương cứng mọi cơ bắp.

Sự làm ăn của Thị phát đạt, Thị mở thêm quán mới, song thiếu người tin cậy quản lí. Thị rủ cậu em bỏ Đông Đức sang ở hẳn với Thị. Biết khó bỏ được
Thị, Y gạt phắt cô gái tuy trẻ, nhưng làm tình lại “ngay như gỗ”, bơ vơ ở lại Berlin, sang phắt với Thị. Hai năm trôi qua, Y để râu, một chòm dài
như râu ngô “cho chững chạc khi đi bên nhau làm ăn”. Đấy là kết quả sau lần Thị khuyên Y về chuyện râu ria. Quả thực, soi gương Y cũng tự thấy Y
chững chạc, tự tin hơn nhờ cái chùm râu dê phơ phất.

Nửa năm nữa, việc bán mì xào may mắn phát đạt, Thị như nhặt được bạc. Bọn họ mở quán ăn thứ ba, gần 200 chỗ ngồi.

Thực ra, Thị cũng chả thèm nhớ chồng ở quê. “Mỗi năm gửi về cho hắn vặt vẹo với lương tháng giáo viên ba cọc ba đồng, đôi ngàn là hắn sướng run lên
rồi!” Thị nghĩ vậy. Nhưng thằng chồng tên Phi, dầu có xủng xoảng tiền bạc ở nhà, vẫn nhớ cái chất ăm ắp vô vàn đàn bà của vợ. Có tiền của Thị gửi
về, Phi lẳng lặng bay sang Nga, rồi lần sang Tiệp.

Từ Tiệp, Phi nhắn sang. Thị nhận tin, hơi bất ngờ, nhưng tặc lưỡi, thuyết phục “thằng em” vài câu. Thằng em ban đầu cũng khủng khoẳng với quyết
định của Thị, Thị bèn cấm vận hai ba tuần. Thật không chịu nổi, nhất là khi Thị xuất chiêu, mỗi khi biết hắn thèm mình, Thị mơn man, bỡn cợt thằng
cu, cho tới khi giai tơ lên cơn, điên cuồng thèm khát, Thị bảo mệt, lăn ra ngủ, mặc xác dương vật hắn trương ra hết cỡ và bụng trên cồn lên, đau
tức như muốn vỡ. Trằn trọc, khó chịu, bức bối muốn điên… Dăm lần như vậy, già nửa tháng sau, hắn Y – thằng em “chào thua”, miễn cưỡng nhào sang
Tiệp đón hộ chồng cho Thị. Bọn giúp việc nhìn theo Y buồn bã ra đi, bố láo ca bài hát xuyên tạc:

– …Ngày mai anh sang Tiệp, ngày mai anh đón chàng. Để lại chị yêu dấu và tiệm ăn thành phố… bao năm cùng nhân ngãi giờ phải đi, nhìn thằng cu
nó chào…

Việc đón chồng, Thị tính giản đơn. Công việc làm ăn mở quán mì xào đang tiền vào như nước, cũng cần người quản lí cho một quán nữa. Phái Y sang
Tiệp đón chồng, Thị được thêm tiếng: “Làm ăn phát đạt mà vẫn không quên tình nghĩa vợ chồng”.

Có chồng sang nhưng không được như điều Thị mong muốn. Mất toi nửa năm thuê người kèm cặp dạy chồng ê a tiếng Đức. Công việc quản lí cũng không đơn
giản, Phi tỏ ra chậm chạp, không như Thị muốn, nên Phi như cái gai, nhất là trước quan hệ già nhân ngãi non vợ chồng, kín kín hở hở giữa Thị và Y.
Cái điều dan díu ấy có thể giải quyết được, thiếu lí do để “chị em chúng tôi đi… bàn việc này!” Vợ chồng ở trong nước thường chín bỏ làm mười.
Mọi sự, về tâm hồn, thói quen, sở thích,v.v… có khác nhau chút ít, cũng phải một điều nhịn chín điều lành, tự cho là bình thường. Khi xa nhau
lâu, tiếp cận với cả một xã hội khác nhau, gần như hoàn toàn, tự thấy khi gặp lại, mỗi người đã chạy theo một hướng, hoặc kẻ đứng yên người tiến
tới; mọi điều, xưa chỉ coi là khác biệt tí chút, có thể chịu đựng, bây giờ, khi đã ra xứ người tự dưng vênh váo, xa nhau vời vợi, khó có thể chấp
nhận! Mỗi ngày xa là thêm một khoảng cách biệt! Không hợp nhau, ra nước người quên câu một điều nhịn…, vạch vòi kể cả lời ăn tiếng nói, cử chỉ
điệu bộ.

Phi biết thân biết phận. Gã im re, vì tự biết mình phụ thuộc vào vợ, rõ như một với một là hai. Ba nhăm tuổi mới sang Đức, nên không có khả năng
thích ứng nhanh với xã hội mới. Gã mà rời Thị là chết đầu nước. Vả lại, gã tự biết mình là loại chẳng sớm thích nghi, không thể một sớm một chiều
phá rào, độc lập.

Cái mâu thuẫn giữa Thị và chồng có cái dung hoà được, có cái không thể. Ví như việc gã không thể nào từ bỏ thói quen ăn cơm và nhớ rau muống cồn
cào. Việc ấy thì chấp nhận được, vì rau muống có đắt cũng không đáng bao nhiêu với một gia đình có ba cái quán. Nhưng Thị khó chịu ra mặt với nhiều
thói quen khác của Phi. Quả là khó chịu! Gã đứng giữa cái quán nói oang oang như đang cãi nhau, hoặc bạ đâu cũng khạc nhổ bừa. Lại còn cái thói,
khi ăn uống cứ tỉnh queo ném xương thịt cá đầy lên gạt tàn thuốc. “Tởm quá, khách hàng nó trông thấy nó bỏ chạy sạch!” Đã có lần Thị quát lên và
buông đũa đứng dậy!

Dăm thói xấu ấy, nói mãi, có cái Phi cũng bơn bớt dần, có cái sửa hẳn được, nhưng thói quen hay ngoáy mũi thì thực là cố tật. Theo Phi, việc nhỏ
thế mà cứ nói mãi, điếc cả đít! Đường phố ở nhà lắm bụi, muôn đời nay làm gì có lắm mùi-soa hay giấy lau mũi như bên tây, nên muốn vệ sinh, mũi
sạch sẽ, phải đào và ngoáy. Thị bảo, sang đây bụi bậm gì mà lắm rỉ mũi thế. Gã đáp cùn: “Quen rồi, ngứa lắm! Mà cô mặc mẹ tôi, mũi tôi chứ mũi cô
à?”

“Nhưng tây nó ghê! Nó tởm tới bỏ quán mà đi, anh biết không? “Thị quắc mắt gắt lại.

Để chữa cho chồng thói quen tệ hại ấy, Thị viết một khẩu hiệu rất to ở ngay phòng ngủ: “Tôi không ngoáy mũi”. Dẫu ức lắm, song sợ thực khách bỏ
quán đi thật, nên Phi cũng nhịn. Nhưng tay đã quen ngoáy và đào cũng khó bỏ. Thành ra cứ mỗi lần đưa tay lên mũi định ngoáy, nhớ khuôn mặt hầm hầm
của vợ, có bỏ tay xuống cũng dở, gã đành vờ vuốt mũi. Lâu ngày mũi gã hình như dài ra, cánh mũi teo đi. Điệu bộ nực cười ấy, ai cũng nhận ra. Vậy
nên, cứ khi gã đưa tay lên, đám làm thuê, bưng bàn, rửa bát, lại cười bảo nhỏ: “Ông Phi sắp vuốt mũi này!” Đám người hay tếu táo đặt ngay biệt danh
Phi Bẩn vì cái tật ngoáy mũi với dăm chuyện nói trên của gã.

Chuyện trai trên gái dưới cũng không che được mãi. Vả lại, Phi có mù thì thiên hạ cũng vành mắt ra cho thấy. Đằng này Phi không mù. Những đêm ăn
nằm với nhau, khác hẳn thái độ hăm hở, đôi khi chủ động làm tình như hồi trong nước, nay Thị cứ cứng ngắc như khúc gỗ, mặc thây gã xoay ngang, đưa
dọc. Lại nghe xì xèo của đám làm thuê, Phi ức sùi bọt mép mà chả dám ho he. “Vớ vẩn! Li dị bây giờ, xôi hỏng bỏng không! Giấy tờ còn lởm khởm, khéo
không lại bị mã hồi về nước!” Phi nghĩ thầm vậy, đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Nhưng cái giống đàn ông, vốn sinh ra ở cái xứ đàn ông dù có hèn vẫn cứ
muốn là chủ gia đình, rơi vào tình huống nói trên, ngậm bồ hòn mãi sao được.

Nỗi nhục đêm đêm hành hạ Phi. Nhất là khi đám nhân viên nhãi ranh cũng chẳng bao giờ coi Phi ra cái thá gì, khi chúng biết tỏng bà chủ coi chồng
thua kém cả con chó đực giữ nhà giống Đức nòi Schaeferhund một nấc.

Phi ức lắm, nhưng suy cho cùng, vẫn phải biết thân biết phận! Gã lao vào học tiếng Đức cần mẫn hơn và âm thầm nghiến răng, chịu khó quan sát kĩ
từng thao tác lắc chảo, xào mì, ướp thịt, pha chế nước chấm,v.v… Nghĩa là toàn công việc, đại loại là những kĩ năng, mẹo luật, để qua đó có thể
làm chủ, điều khiển một cái bếp, nơi quyết định sự thành bại của một tiệm ăn, khi gã muốn độc lập.

Hai năm trôi qua, khi lắc chảo đã dẻo, pha chế hương liệu và gia vị nấu cho ra một bát súp vừa miệng người Đức, và cốt yếu nữa là tiếng Đức cũng
vừa đủ dùng, vừa hòm hòm để chào mời khách, Phi gợi ý Thị, liệu có thể mua cho gã một cái quán nhỏ để tự lập. Ngay lúc ấy, Thị nhướn lông mày tỉa
tót công phu, ra điều ngạc nhiên lắm. Lại hẹn, để Thị ngâm cứu hai ba tuần chẳng muộn. Song thực ra tương kế tựu kế, việc Phi xin Thị mở cho một
tiệm riêng tự lập thật gãi đúng chỗ ngứa của Thị từ lâu. Hôm sau Thị bí mất sai cậu em Y tìm chỗ mở quán mới, lại dặn Y: “Thuê chỗ nào cho nó xa
hẳn ra!” Dăm tuần sau, Y thuê được một nơi làm quán đúng là để cho Phi biệt xứ. Y dựng phắt cho Phi cái quán ấy, cách Y và Thị hơn trăm cây số để
khuất mặt cách lòng hẳn ra cho tiện nhiều bề. Từ đấy Phi biền biệt như một đại sứ ở thành phố này. Thi thoảng lắm, theo lệnh Thị, cậu em Y mới mò
tới. Cũng không bao giờ hắn ở lại quá hai tiếng. Nhận giấy tờ làm thuế của tiệm Phi xong là Y lên BMV phắn về ngay với Thị.

Chiếc xe BMV 500.E đời mới, bóng, đen nhây nhẫy run lên nổ máy, êm tới mức, có đứng bên cạnh cũng không nghe thấy tiếng động cơ, dù nó là loại máy
phân khối lớn trên ngàn mã lực. Mỗi bận nhìn ống xả nhẹ đùn một làn khói xanh mỏng, rồi vút đi, Phi căm hờn dõi theo. Tay gã nắm lại, nuốt nước
miếng đánh ực. Ngày lại ngày, sự căm hờn không có lối thoát, kết thành khối u uẩn. Bụng gã như có khối đá tảng trăm cạnh sắc nhọn, thi thoảng lại
trỗi lên, nhồi xuống. Không ít lần, sau khi Y lướt ô-tô khuất hẳn, gã lẩm bẩm thề độc có ngày rửa hận.

Phần 5

Nhưng so với Thi, gã mưu thấp lại thân cô thế cô, có hờn căm ngùn ngụt cũng chả đụng được tới chân lông của Thị. Gã cũng tự biết chưa đủ sức: dí
một cái là thằng chó Y kia bị di dưới chân như di một con dòi. ở cái xứ xở này có cáu nhau, không kiềm chế, cho nhau một cái tát , cũng có thể bị
ăn vạ mà ra toà, đền tiền nhau sặc gạch. Không có tiền thì cứ vào tù như bỡn. Mỗi ngày ở tù thế cho năm chục Euro, trừ dần vào số tiền không có để
nộp phạt. Nghĩ mãi Phi cũng chưa có cách trả hờn. Sự trả thù suy nhất gã làm được là hàng tháng gã khai man, ăn cắp tiền bán hàng mà không tẹo nào
phải ăn năn hối hận. Phi khoái lắm cái việc làm ấy, vì sự trả thù đó rất hiệu quả, mỗi lần lại xén cho gã được thêm dăm trăm bỏ lọ.

Xa vợ, thèm đàn bà, Phi mò tới gái điếm. Vài lần như vậy rồi gã thôi. “Gái điếm tây làm tình như cái máy. Tình cảm mẹ gì! Hôn một nhát cũng phải
trả thêm chục D,mark!” Gã từng không nề hà tâm sự thẳng như thế với vài người đồng hương khi họ chợt rẽ qua quán. Điều đó đúng là gã nói thật,
trắng phớ cái lòng gã. Bởi sau những giờ thoả mãn tạm thời sự khao khát “ẩn ức” tình dục, thì nhu cầu khao khát tình cảm, chứ không chỉ đơn thuần
là dục tính, càng làm gã đau đớn thêm. Gã vừa tiếc tiền vừa thèm khát một gia đình, một người vợ hiền đúng nghĩa. Nhớ đau đơn về những ngày chung
sống hạnh phúc tràn trề với một người đàn bà là Thị, như lúc họ còn yêu nhau, trong thời đoạn trước, sau ngày cưới, khi còn ở Việt Nam.

Những câu chuyện như vậy, ngu tới đâu còn hiểu ra, nữa là Phi cũng thông minh chan, nên khi gã biết tỏng sự thật vợ mình dan díu, lại chẳng thể nói
cùng ai, chia bớt cái bẽ bàng, tức tối vãn hàng nagỳ đầy đoạ, gã luôn cảm giác nặng trĩu trong lòng. Điều ấy tựa như người đang đeo trên lưng một
khối đá. Có lẽ bởi thế, Phi có lúc tự nhiên đang nằm trên giường, bỗng bật nhỏm dậy, đấm thùm thụp vào bộ ngực vạm vỡ của mình. Việc ấy, y như cảnh
trong phim giả tưởng, con Kinh-Kong tự đấm ngực thùm thụp. Một bận, nhân tình của vợ gã, thằng Y, tới kiểm tra quán. Nó đi quanh quán ngó nghiêng,
vạch vòi vệ sinh, hạch sách đủ chuyện! Từ cái chảo dầu chưa kịp đánh, tới máy hút mùi sao không chịu lau mà lại phải thuê, thùng rác mới mua đã
vỡ… y như nó, thằng oắt con ấy, mới là chủ, còn Phi chỉ là đầy tớ. Phi tức tái mặt. Y đi rồi, Phi ức quá đấm thùm thụp mấy cái liền vào ngực.
Chẳng may bữa đó lại có thằng ở trại vừa đi bán thuốc lậu ghé qua ăn tạm đĩa mì, câu chuyện làm quà, kháo toáng lên, lại bịa tạc thêm rừng, sớm nào
nó cũng qua quán, ngó lên ban-công, bao giờ cũng nhìn thấy Phi trong nửa sáng nửa tối, tự đấm thùm thụp vào ngực như luyện võ. Có đứa phong phanh
việc gia đình riêng của phi, chuyện có vợ như không, chuyện tay nhân tình của vợ đã làm Phi ôm hận, dủm dỉm nói: “Nó tự tẩn nó đấy mà. ức quá, cóc
làm gì được người ta thì tự tẩn mình”. Hôm sau có kẻ ngứa mồm bảo, Phi Bẩn không hay bằng Phi Tẩn. Từ đó Phi có thêm hỗn danh Phi Tẩn.

Phi là như thế! Bắt đầu là Phi Bẩn, sau là Phi Tẩn. Sau này thêm biệt danh Phi Ngẫn xuất hiện, cũng không biết từ ai, cứ thế mặc nhiên trôi nổi
trong đám người tị nạn.

Đêm nay đã hơn mười giờ, người khách cuối cùng vừa rời quán. Phi chuẩn bị đóng cửa chợt nghe thấy tiếng chuông treo ở cửa kêu đinh đong, báo hiệu
có khách vào. “Đóng cửa rồi!” Không ngẩng lên, Phi đang dọn bếp, xếp những vỏ bia vào két rỗng ở gầm bàn, nói vọng ra bằng tiếng Đức.

“I am sory!” Giọng một người đàn bà cất lên nhẹ như gió thoảng. Phi đứng lên.

Gã suýt nữa đánh rơi chiếc vỏ bia đang cầm xuống nền nhà. Gã nhìn thấy như mơ một người đàn bà trẻ ẵm trên tay một đứa bé. Khuôn mặt cô ta thực
đẹp, vô vàn quyến rũ.

Đó chính là Quyên.

Cả hai nhìn nhau trong giây lát. Một chữ tiếng Anh bẻ đôi không có, Phi không hiểu cô gái nói gì nhưng nhìn vóc dáng, khuôn mặt, làn da, màu tóc
của cô ta, gã không thể nhầm được, đó là người Việt Nam. Cô ta đẹp một cách rực rỡ mà vẫn đằm thắm, dịu dàng. Gã cất tiếng: “Nõi tiếng Việt đi! Cô
cần gì”

Người đàn bà nhìn Phi một vài giây, rồi cất tiếng Việt.

Hoá ra cô ấy cần một chút nước sôi pha sữa cho con. Tới khi Quyên ngồi xuống ghế, giở bọc chăn ra, Phi mới nhìn rõ hơn đứa bé.

Đứa bé chỉ chừng vài ba tháng tuổi, còn đỏ hon hỏn thế kia? Định bế nó đi đâu? Đưa bình nước sôi cho Quyên pha sữa, Phi thoáng nghĩ.

Có những vẻ đẹp đàn bà làm người đàn ông khi gặp gỡ, đối diện, chợt muốn mình tử tế, thận trọng, tinh tế và lịch sự hơn. Quyên ở trong số đó. Dẫu
đói và mệt, dẫu vừa sinh con, Quyên vẫn là bức tượng Tố Nữ đặt dưới ánh đèn màu dìu dịu, chênh chếch toả sáng, làm tôn thêm vẻ đẹp luôn rạng ngời
tươi tắn của khuôn mặt cô.

Nửa tiếng sau gì đó, họ ngồi đối diện nhau bên bàn ăn và gã cũng nắm được hoàn cảnh của vị khách đêm muộn mằn, không mong đợi. Cô gái lạ cũng không
nói dối gã, song cũng không nói nhiều về mình. Đại loại, cô sợ nằm viện, giấy tờ hợp pháp không có, bỏ trốn. Có vậy!

Gã tỏ ra đồng cảm với cô. Đấy là hai con người chả hiểu gì về luật pháp nước sở tại gặp nhau. Thực tâm gã cũng không hề có giải pháp nào giúp Quyên
cả. Gã luôn luôn gật gù cái đầu và tỏ lòng ái ngại. Một người đàn bà trẻ với một đứa bé chưa đầy ba tháng, túi nhẵn, vài đồ vặt, chăn mỏng, áo
thưa, không cầm cự được giá rét của một tối mùa đông. Đi đâu? Gã hiểu nổi và chính Quyên cũng không thể lí giải nổi: Dù cho vậy, trong tậm trí gã
khi ấy vẫn còn đủ chỗ, dù chỉ một góc, để có thể chia sẻ thực sự với Quyên, lại là người bấy nay cũng rơi vào tình trạng sống bấp bênh ở một xứ sở
hoàn toàn xa lạ. Gã còn có vợ hờ, là bà chủ Thị, còn người đàn bà trẻ này thì chẳng có ai thân thuộc.

Gã trầm ngâm một lát rồi bảo:

– Ngày mai cô hãy đi, bây giờ lên phòng trên, có chăn nệm cho hai mẹ con. Yên trí, tôi không là quỷ dữ! Bây giờ cô đói lắm phải không? Tôi cũng
chưa ăn tối. – Nói thế gã quay sang nổi lửa ngay.

Có khá nhiều người Việt Nam trong số Thợ khách – Công nhân Xuất khẩu lao động – lầm tưởng rằng, ở Phương Tây người ta tự do yêu đương, tự do làm
tình, chẳng có biên giới kỉ cương gì. Sự tiếp cận một nền văn hoá khác biệt, có tính nhảy cóc, từ làng bản lên thành phố, từ nước chậm phát triển
tới một đất nước đã phát triển nhiều mặt, không được chuẩn bị về “quá trình nhận thức”, chứ không phải chỉ là những kiến thức được ghi trong sách
vở, lại được soạn thảo một cái vội vã, hời hợt trên dăm trang đánh máy mỏng dính, đã tạo nên những lỗ hổng không bao giờ hàn gắn được. Đó là một
trong những nguyên nhân, làm cho nhiều người Việt Nam chân lấm tay bùn có dăm ngày “bồi dưỡng học Văn hoá Đức” nhảy tót sang châu Âu, trở nên hồn
nhiên lơ ngơ “nhận thức thế giới” hệt như quạ vào chuồng lợn.

Từ việc nhầm tưởng châu Âu tự do tới không biên giới về quan hệ nam nữ, nên trong đám người lao động, không thiếu kẻ, cả nam lẫn nữ, cho rừng, ở
chốn này tha hồ tự nhiên thoả mãn dục tính, đó là “văn minh”. Thế rồi gặp nhau, hễ có cơ hội, là tìm cách thoả mãn dục vọng. Lắm kẻ bất chấp những
điều mà khi còn ở trong nước, khuôn khổ của đạo đức truyền thống không cho phép, nhằm hướng họ tới những giá trị, để gìn giữ xu hướng Người, chống
lại bản năng sinh hoạt bầy đàn.

Người ta cũng không lạ gì khi một đội lao động hơn một trăm nữ, chỉ sau hai tuần, một phần tư trong số các cô gái vừa thoát tuổi học trò, thoát
khỏi sự kìm toả của cha mẹ đã có ngay “người yêu” và từng cặp, che luôn màn gió, ôm siết lấy nhau như vợ chồng quen thuộc, bắt chước làm tình đúng
như phim ảnh, mặc kệ bạn gái nằm giường kế bên kia tường quấn chăn lặng lẽ khóc.

Ba tháng sau, khi hầu hết các cô gái nói trên có người yêu, thì tới các chị sồn sồn, nạ dòng đã có chồng con “tiến lên” theo các cháu. Ba tháng là
thời điểm để họ, những người đàn bà ăm ắp nỗi lo “cứu con cứu chồng” thấm thía, thấy rõ hơn việc săn hàng, đóng hàng, khó khăn như thế nào; ví như
việc dồn hai cái lốp xe máy lồng vào nhau để khi kiểm tra qua màn hình máy soi, hải quan nom như một chiếc, hay việc phải tháo tung chiếc xe Simson
đóng vào thùng cho gọn,v.v…

Một năm trôi qua, hầu hết đám đàn bà con gái đều có tình nhân. Họ cũng chẳng thèm tìm hiểu những viên thuốc tránh thai hàng ngày, mà bà Betreuerin
phát tận phòng, phải uống như thế nào, vì thế không ít ca nạo thai đều đều từng tháng. Cũng còn những người, suốt cả thời gian Thợ khách năm năm,
không cặp bồ, đó là sự “”Bản anh dũng ca” lẻ loi thuộc về những người đàn bà dũng cảm trung trinh nhất, với hệ thống thần kinh thép đầy lí trí, có
sức khoẻ tuyệt vời và khả năng tự lập cao, làm lụng chịu đựng hơn cả đàn ông. Hoặc dăm cô gái tân, còn vô cùng nặng tình với người yêu ở Việt Nam,
hoặc là những người phụ nữ có vấn đề về thần kinh, sau bao đêm chẳng ngủ, khi chống chọi với cả một thế giới cặp bồ, để giữ hai chữ thuỷ chung với
chồng con ở hậu phương. Có mà thần kinh thép mới giữ được mình vẹn toàn trước bao cám dỗ xung quanh, trước sự khơi gợi của phim đầy cảnh sex thường
chiếu về khuya dành cho khán giả, các cặp vợ chồng tuổi mãn chiều xế bóng người bản địa, trong năm năm dài vô tận, vượt ra ngoài cái gần như luật
tự nhiên ấy.

Thời Berlin chưa sập tường, có truyền thuyết kể, từng đoàn tàu chật ních nam giới đầu đen từ nhiều ngả chạy hướng về một vùng Đông Nam Đông Đức,
nơi tập tring ba bốn đội, rặt phái đẹp. Có tới hơn ba ngàn nữ lao động xuất khẩu ở dồn trong khoảng bốn năm cây số vuông, ven con sông xanh ngắt.
Có kẻ nói vống lên rằng, sông Danube xanh, sau hai ngày nghỉ cuối tuần thường chuyển màu trắng xoá, ngầu lên đầy bọt vì tràn ngập tinh trùng, giống
má con cháu Lạc Hồng.

Thật đau đớn khi nhớ tới những bào thai “đậu bất phùng thời” bị nạo phéng đi không một giọt nước mắt. Những bào thai ấy, hàng vạn sinh linh chưa
kịp nhìn thấy mặt trời, dầu có khi chớm đủ hình hài, đã hy sinh lặng lẽ, thân thể bị cắt nát, rồi bị nạo phứt khỏi dạ con của những người đàn bà
tóc đen mũi tẹt, trong các bệnh viện sản khoa để “chấp hành hiệp định” và hơn nữa là bảo vệ uy tín, danh dự, phẩm tiết của biết bao người phụ nữ
tha hương đã sẩy chân lỡ bước vì miếng cơm manh áo.

Để các sự tích ấy chìm nghỉm trong mùa đông hải ngoại, người Thợ khách trở về quê hương, sau khi bức tường Berlin đổ, dù có đổ bao nhiêu nước mắt ở
sân bay Berli khi “Vĩnh biệt chim câu” vẫn cố lau khô nước mắt và nở nụ cười rất tươi ở Nội Bài. Sự thật ấy thực vô vàn xót xa và đắng ngắt.

Hơn nữa ở Việt Nam, sự chật chội về nhà cửa điều kiện vật chất, nơi hò hẹn hạn hẹp và con mắt của dư luận thời bao cấp có phần nghiệt ngã, nhưng
chính điều đó lại phần nào kìm toả cái bản năng của người ta, nên từ nhận thức u muội về tự do luyến áo ấy, cộng với sự ham muốn thỏa mãn phần con
trong mỗi kẻ tha hương, như con nước ứ bế lâu nay, sang tới Đức được dịp tràn bờ; nhất là cánh đàn ông, đám đã có vợ con, đã biết khoái cảm cuộc
sống. Đàn bà Việt vốn cam chịu, nay rơi lạc như hạt mưa trên đất khách, càng cam chịu và thả lỏng hơn, khi bị đẩy vào những tình huống cùng đường
hay nhạy cảm.

Phi di dời sang Đức sau trận bão xuất khẩu lao động, nhưng nhận thức cũng không khá hơn đám Thợ khách ít tự vấn kia. Nhìn đồng loại quanh gã, cứ
nam và nữ chung phòng hay là có chuyện. Gã cũng đinh ninh rằng, đàn bà nào chẳng là đàn bà và, người Đức có lẽ cũng như vậy.

Có một lần, Hội chợ thành phố mở kề phố bên quán, kéo dài một tháng. Dự đoán, buổi trưa quán sẽ đông khách hơn và nếu không có người phụ giúp, một
mình gã khó lòng cáng đáng hết công việc. Gã đăng quảng cáo tìm người giúp việc.

Báo vừa rao tin, một thiếu nữ Đức tới xin việc. Nhìn cô gái trẻ, tươi hơn hớn, tóc vàng ươm sóng sánh như sóng cuộn, mềm xoã trên hai bờ vai; cặp
vú nhọn hoắt, nây nẩy như hai trái dừa xiêm căng tràn sức xuân, phập phồng dưới làn áo mỏng, gã nuốt nước bọt đánh ực và tưởng tượng ra cái cảnh ân
ái cho không.

Có một đêm, khách lai rai, quán gã bán hàng quá mười hai giờ đêm. Cô gái muốn ở lại qua đêm ở tiệm, vì phải hai tiếng sau mới có chuyến bus về Dorf
của cô. Gã đồng ý tắp lự và để cô gái ngủ trên phòng, rồi kéo đệm nằm cũng phòng ấy. Cô gái vừa tắm xong, lên giường nằm rồi mà gã vẫn cảm thấy mùi
da thịt của cô lan toả khắp phòng. Con đực đánh hơi thấy mùi tơ con cái! Nhớ những câu chuyện của đồng hương kể về việc chung phòng với nữ đồng bào
Việt, sự cam chịu của đàn bà Việt, gã nhăn nhở cười, nói mấy câu tiếng Đức ngọng nghịu, rồi bất ngờ nhao người nằm đè lên cô gái Đức. Sự thể thật ê
chế! Cô gái chống cự quyết liệt, ẩy gã ra, tặng ngay một cú đá thuộc đẳng “đai đen Judo”. Gã bắn dí vào tường. Đau! Quà tặng ấy ngay lập tức dập
tắt ngọn lửa dục vọng đang phừng phừng nơi Phi.

May cho gã đêm ấy, không dám tiếp tục sàm sỡ hay hành vi côn đồ gì nữa. Với lại, cô gái Đức trẻ ấy cũng thông minh và bình tĩnh, ngồi khoanh tay tự
tin lắng nghe gã “hối hận”. Hình như cô hiểu cái bản năng thú tính tự nhiên của gã, khi gã xin cô tha thứ. Điều đó thật may! Từ đó, gã không bao
giờ quên chuyện ấy và nhận ra, ở cái xứ sở này, việc quấy rối tình dục cũng là một tội, hành vi thối tha đêm ấy có thể đưa gã vào tù và đền bù bộn
tiền như chơi. Cũng từ đó, gã ngộ ra điều sống để dạ chết mang đi: “Gái tây không phải gái ta, bận sau chớ có dại!”

Có thể vì kinh nghiệm ấy mà Phi thận trọng với Quyên hơn chăng? Dù là thoạt nhìn cô, giây phút đầu gã đã thấy bộn chộn trong lòng.

Cơm có sẵn trong nồi cơm điện. Chào xèo xèo cháy bùng. Lửa vàng trùm lên trên những miếng thịt bê non ướp gừng, tỏi và tiêu, thơm nưng nức. Thịt gà
kho gừng đằm vị đã nấu sẵn. Đứa bé bú xong chai sữa, được quấn trong chăn, nằm ngủ yên ngay trên chiếc bàn rộng. Mùi thịt bò, mùi cơm tám Thái ngào
ngạt làm Quyên cồn cào. Phải sống đã ! Quyên không ngần ngại, khách sáo gì, cô đón lấy bát cơm từ tay người chủ quán. Không hiểu sao đang ăn nước
mắt cô đột ngột ứa ra, lã chã rơi xuống bát cơm. Đã lâu lắm cô mới được ăn cơm thơm thế này. Cô chợt nhận ra thân phận mình. Cô nhớ mẹ, nhớ những
bát cơm dẻo khi cô còn ở Việt Nam, có một người bà con, từng lưu lạc ở Nga, tới thăm mẹ cô, bảo “Em không ra nước ngoài, em không biết, đôi khi chỉ
có một cọng rau húng cũng làm người ta cồn cào nhớ quê hương, gia đình”. Khi ấy cô đâu tin. Bây giờ trong hoàn cảnh này, cô chợt thấy thương mình.

Sao cô lại khóc. – Phi hỏi cô, đôi mắt săn đón. Có lẽ người phụ nữ này đang sợ hãi và đau khổ.

Gã im lặng một lúc. Tự nhiên gã muốn kể cho cô nghe ít nhiều về gã. Khỉ thế, tuy khác nhau về hoàn cảnh, nhưng những kẻ ly quê, dù kín tiếng tới
mấy, vẫn có nhu cầu chia sẻ, nhất là khi có thêm một người hiện diện trong cái khoảng trống toang hoác bấy nay ở gã.

Gã vừa ăn vừa thủng thẳng kể: “Tôi ở đây một mình. Vợ tôi làm việc cách đây hơn hai trăm cây. Tôi có hoàn cảnh đau khổ lắm! Nhưng ra xứ người rồi
cố mà chịu, em ạ. Vợ tôi nó chả coi tôi ra gì. Có vợ như không:” Gã tự thấy quá lời, ngần ngừ sợ, cô khoá cửa lại và…” Gã cầm con dao trên bàn
bếp, đưa cho Quyên, nói tiếp: “Cô cầm sẵn cái này để ở đầu giường”.

Quyên vừa ăn vừa suy nghĩ. Với gã, cô không sợ. Khuôn mặt gã có vẻ rất thật thà, chắc không thể là kẻ có thể gây cho mẹ con cô nguy hiểm. Phải sống
đã! Con cô cần có chỗ ngủ.

Hai mươi phút sau. Quyên theo gã lên gác. Gã vừa quay xuống, cô chốt cửa phòng lại. Con dao thép trắng, dài, sắc như nước, để bên mình. Quyên quay
lại nhìn con dao, hôn nhẹ lên má nó và sau cái ngáp mỏi mệt, chìm nhanh vào giấc ngủ.

Gã không ngủ được. Nằm trong túi ngủ, trên ba cái bàn ăn kê sát nhau, mắt cứ thao láo mãi. Chán thật! Gã dậy, xuống bếp, một mình trong đêm tối
chơi hết ba bốn chai bia. Buồn thế! Trong đêm, gã nhớ tới khuôn mặt Quyên, rồi chả hiểu sao chợt nhớ tới cuộc hành trình của gã, những đêm vượt
biên từ Nga qua Tiệp, sang Đức. Sao người đàn bà trẻ này liều vậy, chồng cô ta đâu?

Gã bật ti-vi

Kênh RTL đang có phim porno. Đôi trai gái đang làm tình trên màn ảnh làm gã rạo rực. Gã trườn khỏi túi ngủ và kéo dương vật cương cứng ra khỏi quần
lót rồi vuốt lấy vuốt để. Người gã căng cứng. Gã hổn hển thở dốc khi từ cái của nợ của gã bắn vọt ra một bãi bầy nhầy, trắng đục, vung vãi trên sàn
và dương vật của gã lập tức mềm oặt như dải khoai môn bị hơ qua lửa, héo quắt.

Dăm phút sau, gã thiếp đi.

Hai ngày sau đó Quyên thấy mệt. Người ngây ngấy như sốt.

Quyên ở lì trên gác, cả hai ngày miệng đắng ngắt, cô toàn uống nước, cho tận tốt mịt ngày hôm sau mới chịu húp chút cháo. Gã chủ quán tỏ ra lo
lắng. Gã sốt sắng đi mua thuốc cảm cho cô uống. Lại hì hụi nấu cháo và gà xé, rồi bưng bát cháo gà mùi hành thơm phức lên tận phòng, sau đó lại lập
cập đi pha sữa cho con cô.

Nhìn gã bận tâm với mình như vậy, ái ngại quá, Quyên định, có lẽ sớm mai cô sẽ rời quán này. Làm phiền gã quá, một người xa lạ, cô nghĩ. Nhưng đi
đâu bây giờ? Đó là một điều bản thân cô vô cùng lúng túng.

Sớm ấy, Quyên và gã ngồi dưới quán. Cô đã chuẩn bị sẵn, sẽ bắt đầu câu chuyện với Phi ra sao. Có lẽ sau buổi nói chuyện này với gã, cô sẽ lên
đường.

Đứa trẻ sơ sinh ngủ ngon lành. Hình như nó đang cười. Đôi môi hồng tươi, bàn tay nhỏ xíu, trắng hồng đặt trên chiếc khăn bông màu hồng. Mùi cà-phê
thơm ngan ngát. Gã ngồi yên nghe câu chuyện dài mà Quyên kể với gã. Im lặng chừng dăm phút. Lòng Phi thấy thương thay cho hoàn cảnh của người đàn
bà xa lạ. Cô ta thực đẹp. Mình thì mơ một gia đình yên ấm chẳng có. Sao cái thằng đàn ông nào ngu thế, không biết quý trọng nâng niu mà lại hắt hủi
người đàn bà đẹp như tiên thế này. Vào hoàn cảnh ấy, gã sẽ chấp nhận, được cả trâu lẫn nghé! Gã bất chợt nảy ra ý nghĩ, dù thoáng qua, nếu cô là vợ
mình nhỉ? Gã mỉm cười.

– Cô định đi đâu? – Phi nhìn vào mắt người thiếu phụ xinh đẹp và bàn tay mơn man đầu đứa trẻ.

– Tôi cũng không biết, Nhưng làm sai tôi có thể ở lại đây? – Quyên ái ngại nhìn thẳng vào gã.

– Cô không nên đi. Cô phải lên Sở ngoại kiều của thành phố để trình diện! Nếu trình diện, người ta sẽ chu cấp tiền cho con cô và cô. Sống ở Đức
phải có giấy tờ. Không thể chui lủi được đâu! Cô không phải là đám nam giới, đám bộ đội độc thân quen sống vất vưởng, nhất là khi cô có con nhỏ thế
này. – Gã thản nhiên nói và nhìn mắt Quyên. – Tôi ở đây chưa lâu, mới chỉ vài năm, không giỏi giang gì để hiểu biết hơn cô mấy, nhưng dù sao cũng
biết ít nhiều về luật lệ nhập cư, có thể tạm thời phiên dịch, giúp cô làm đủ giấy tờ nhập trại. Cô sẽ ở lại đây? Hay cô định quay lại trại và gặp
thằng da đen hoặc chồng cũ, cái thằng khốn nạn ấy? – Gã nói như van vỉ. – Tôi có gian phòng trên khá rộng. Trong khi làm giấy tờ để nhận một nơi ở,
cô hãy ở tạm trên đó. Nếu thấy không hài lòng, cô có thể đi ngay. Tôi không phải là người xấu. Thực lòng đấy. Cô nom vừa hiền, vừa đẹp lắm! – Phi
không giấu được vẻ khâm phục thốt lên.

Quyên ngồi im lặng, quả là cô cũng không biết đi đâu. Tiếng Đức không biết. Vả lại, cô thực lòng không muốn quay lại viện, gặp lại cái khuôn mặt
đen sì và bộ răng trắng ởn ấy. Sợ nhất là, biết đâu đấy, cô lại chạm mặt người chồng cũ, xưa cô vô vàn yêu thương đã đẩy cô tới nút cùng của cuộc
sống. Hay là cứ ở liều lại đây? Với Quyên, mọi chuyện giờ không quan trọng bằng con cô. ừ, hay là ở lại. Mặt mũi người đàn ông này xem ra không
đáng sợ. Vả lại bây giờ, cô đã từng trải rồi. Có thêm con dao bên cạnh, cô sẵn sàng liều chết để tự bảo vệ.

Phi đi lại phía tủ. Gã loay hoay một lát, móc ra từ phía sau tờ báo dán bên cánh tủ hai tờ bạc năm trăm Euro mới cóng.

– Hôm nay sẽ mở cửa hàng muộn hơn, chúng ta ra Trung tâm mua một ít đồ cho baby đã. – Phi ân cần nói với cô.

Không hiểu sai Quyên lại đứng dậy ngay, ẵm con theo chân gã, bước xuống cầu thang như một cái máy.

Hơn hai tiếng sau, họ quay lại quán ăn nhanh và chuyển một đống nào sữa, nào áo, quần và bỉm, lại một túi to bao nhiêu là kem, nước tắm cho trẻ sơ
sinh, giấy lau mềm khô và ướt… Có cả một dàn các con thú sặc sỡ, treo toòng teng cùng với vài ống kim loại trên một cái cần mà hơi động nhẹ đã
phát ra tiếng đinh đong rất vui tai. Lâu lắm rồi, kể từ ngày xa khu rừng biên giới, nơi có kẻ đã cưỡng hiếp rồi lại yêu cô, Quyên cảm thấy lòng ấm
áp. Ngọn lửa yêu sống trong cô vẫn còn lom dom lắm, nhưng ở hoàn cảnh này, dù sao nó cũng mang lại cho cô một niềm vui nho nhỏ. Cô cười. Nụ cười
đầu tiên từ lúc cô đến đây với Phi, người mà cô bắt đầu cảm giác như cái phao cứu sinh ném ra giữa sông cho một kẻ sắp nghỉm xuống, mất tiêu.

Quyên ở lại với gã trên căn gác ấy. Đêm đêm cô vẫn để con dao dài bên mình và đôi khi cô bừng giấc, nghển cổ lên, mắt mở trừng, cố gắng nín thở,
không động cựa. Thường là, khi thức giấc, tay cô sờ lần, tìm nắm ngay lấy con dao trắng, lắng nghe những âm thanh từ cửa vọng vào.

Gã chủ quán tên Phi vẫn ngủ dưới quán. Ban ngày công việc luôn chân luôn tay làm cho gã bớt suy nghĩ, nhưng đêm đến, gã vẫn trằn trọc. Rất nhiều
lần, gã mò lên cầu thang. Cũng có bữa, mấy lần, gã đã đặt tay vào bên trái cửa, nơi cái bản lề cũ long, sệ, hỏng. Chỗ ấy, có thể ẩy một cái và cái
chốt cửa sẽ lệch đi, then khoá không có tác dụng, gã có thể lọt vào phòng dễ dàng. Nhưng không hiểu sao, gã chần chừ bao lần và không thể ấn vào
nơi có cái bản lề hỏng ấy, để lọt qua cánh cửa. Bao lần như thế, rồi gã lại trở về tầng trệt, thở thượt, và lại trườn vào túi ngủ, nằm trên bốn năm
cái ghế kê sát bên nhau, thao láo mắt trong đêm. Sự khao khát làm tình, nhu cầu tự nhiên của gã thật dễ hiểu, và gã lại tặc lưỡi, lại kéo quần và
bật tivi, chọn kênh có phim Porno.

Đêm ấy, ngay sau lúc thủ dâm gã chợt hối hận. Bởi sự khao khát yêu thương, âu yếm thực sự, hạnh phúc của một đôi tình nhân bấy nay gã hoàn toàn
không có. Mà điều đó mới là điều gã mong muốn, thèm khát, chứ không giản đơn là thoả mãn cơn dục tính, dầu là khi bị kích thích, trước màn hình vô
tuyến, trong cảnh sex đầy nhục cảm, dương vật gã cương lên chảy tứa nước nhờn.

Khi ý thức được như vậy, gã thấy buồn. Gã nhớ, thèm vợ! Nhớ vợ, gã lại hình dung tới cảnh vợ cặp kè với tình nhân. Gã mím môi, trừng mắt khi chợt
hình dung ra cảnh Thị nhăn nhở cười, nhìn gã khinh bỉ và, khuôn mặt lạnh lùng của thằng Y, bồ trẻ của Thị. “Thằng đểu, nó bao giờ cũng cười nửa
miệng như nửa khinh bỉ, nửa giễu cợt!” Nghĩ tới đấy, tay gã nắm chặt lại, những mạch máu trên cổ như muốn vỡ trong đêm. Lại càng đau đớn hơn, là
khi gã nhớ lại những tháng năm ở quê nhà và tự gã cố lí giải mọi sự việc đã qua, của cả quá trình hạnh phúc và đau khổ với vợ hắn. Thì ra cái gia
đình của vợ chồng gã ở Việt Nam, dù con vợ gã bản chất chẳng ra gì, chắc vẫn đỡ sứt mẻ, đỡ bất trắc hơn so với khi đẩy ra nước người. ở nhà, hắn
nghĩ: “Có thách kẹo, bố bảo, Thị cũng không như ngày hôm nay mà lờn với gã như vậy. ừ, dù có là con đĩ nữa, ông đố mày dám công khai trêu tức ông
như hôm nay”. Nghĩ như vậy, gã chợt ngồi dậy, mặt thừ ra trong đêm tối và, bỗng thấy nhớ nôn nao cái làng của gã. Cái làng nghèo đói thật, lắm lệ
tục cũ kĩ thật, nhưng vẫn còn đất cho gia đình gã bám rễ vào, khỏi tan rã, vì Thị dù có lăng loàn tới bao nhiêu, vẫn không thể có cơ hội một mình
trơ tráo tới mức sỉ nhục, bỉ thử gã giữa họ hàng, làng xóm và ngay trong đại gia đình của gã và Thị. Nhưng gã không thể lí giải nổi vì sao, Thị có
thể chóng quên tới vậy, trơ tráo tới mức như hôm nay, để không chỉ phản bội gã mà còn trợn trạo làm gã trở nên lố bịch giữa những người đồng hương
máu đỏ da vàng. Gã không sao lí giải nổi, nguyên do gì gây nên cái điều làm gã căm thù, đau khổ bấy nay. Điều gì gây nên sự bất hạnh không chỉ
riêng gia đình gã, mà còn là sự chắp gá, tan rạn, vỡ nát không thương tiếc của hàng vạn gia đình người Việt sang đây. Bao câu chuyện buồn tương tự
như gã, trong những người mà gã biết, khi họ lang bạt, dứt khỏi mảnh đất, những cái làng đói nghèo đã sinh ra họ.

Tuần sau, Quyên có giấy tờ tị nạn.

Phần 6

Hai tháng nữa trôi qua, giờ đây cô có tiền ăn cho cô và con, nhưng cô cũng chưa muốn bỏ Phi mà đi. Nhiều khi, cô muốn tới sở ngoại kiều để xin về ở
hẳn trại vào đó nhưng cô lại đắn đo. Điều làm Quyên day dứt hơn là sau những buổi trưa giúp gã tất bật bán hàng cho khách, khi trở về với con, nhìn
thấy nó dần lớn phổng lên và rất hay cười. Nụ cười của một phần xương thịt làm cô quên hết đau khổ, nhọc nhằn bấy nay. Vả lại, Quyên cũng ý thức
rằng, thiếu cô, có lẽ cửa hàng sẽ kém hẳn doanh thu. Bởi cô đã nhận ra, sự có mặt của cô, những người khách ăn trưa thấy dường như ngon miệng hơn.
Chẳng thế mà có thực khách đã nói với Phi “Người giúp việc mày nói tiếng Đức còn chưa tốt, nhưng nhìn nụ cười trên môinó, tao ngon miệng lắm”.

Còn một lí do nữa khiến Quyên ở lại. Đấy là số tiền mà gã trả cho cô hàng tháng. Nếu tính toán sòng phẳng, việc Phi chi tiêu hàng ngày cho Thanh
Vân và cô, thực ra quá trội so với lao động cô bỏ ra giúp quán. Vì mỗi trưa có vất vả, so với giá thành lao động chung trả cho đám người Việt ở
thành phố này, bốn giờ lao động, mỗi giờ mười Euro, có lẽ chỉ đủ cho cô và con ăn ngủ ở đây. Ngoài ra, hàng tháng gã phải mua bao nhiêu thứ cho bé
Thanh Vân; từ bỉm tới sữa, nước, kem, khăn giấy vệ sinh các loại dành riêng cho baby,v.v… trăm thứ bà rằn khác mà cuộc sống phát triển của phương
Tây đặt ra, để chăm sóc trẻ con một cách đầy đủ, tiện dụng và ưu ái nhất. Thế mà Phi vẫn đưa thêm cho cô hai trăm một tháng. Số tiền mà mỗi lần
Quyên nhận cô tự cảm thấy ngượng ngùng. Nhưng cô cần tiền. ý nghĩ có tiền để giải thoát tình trạng bí bách hiện tại, có tí chút vốn liếng giắt
lưng, rồi lấy vé bay trở về quê hương thúc ép cô, làm thành một mục đích biện minh, đè bẹp sự ngượng ngùng của một Quyên đầy liêm sỉ.

Như vậy, cộng với tiền xã hội Sở ngoại kiều cấp khi cô nhập trại, Quyên có thể tiết kiệm một tháng khoảng năm trăm Euro. Cô tính, rồi cô sẽ trở về
Việt Nam nay mai. Phải làm lại từ đầu! Như thế, ít ra là hai năm nữa, chờ cho con gái đủ lớn, có thể gửi nhà trẻ, cô cũng cần một số tiền nữa cùng
với tiền đã tích cóp từ trước, để khi trở về có thể mua một căn hộ tập thể nhỏ, khỏi phiền hà tới mẹ. Tất nhiên cô không bao giờ quay lại nhà
chồng. Không bao giờ! Hôm nay cam chịu! Cam chịu đi này Quyên! Bằng ấy lí do để cô ở lại với Phi, dù rằng bằng linh cảm của đàn bà, con thú yếu, cô
nhìn thấy ánh mắt của Phi vẫn là ánh mắt của một con thú đực sẵn sàng có thể vồ lấy cô mà cắn xé. Điều đó dần trở thành ý thức cảnh giác, khi đêm
đêm cô vẫn lần sờ, tìm nắm lấy cán dao, khi nghe thấy tiếng chân rón rén của gã ngoài cửa của gian phòng mẹ con cô trú ngụ.

Mùa đông năm ấy tuyết rơi muôn, nhưng lại khá lạnh. Gió hú khan từng cơn, vọng vào nơi mẹ con Quyên nằm. Hai đêm liền, băng rơi như muối rắc, bay
rào rào, đập lắc cắc vào cửa kính, đọng thành vệt lổn nhổn, cứng đanh. Đứa trẻ có vẻ khó ở, rồi cơn ho bất ngờ trong đêm làm Quyên bừng thức. Cặp
nhiệt độ, đứa trẻ sốt gần bốn mươi mốt độ. Quyên hoảng hốt. Đứa trẻ nóng hầm hập như hòn than, khóc ré lên từng hồi.

Phi cũng không ngủ được vì tiếng khóc ấy. Gã sốt ruột, bước vội lên cầu thang và gõ cửa.

Sinh con lần đầu, Quyên hoàn toàn không có kinh nghiệm. Phi thực ra cũng chẳng có một chút hiểu biết gì về nuôi dạy trẻ, gã sờ đầu đứa trẻ như
người khác từng làm. Nhưng gã là người ngoài cuộc dạng cờ ngoài bài trong, lại thông thạo xứ này hơn, ít ra là so với Quyên. Có lẽ vì vậy Phi nói
ngay: “Sốt cao rồi. Phải gọi điện cho xe cấp cứu!”

Nhìn khuôn mặt đỏ ửng của con, Quyên để mặc gã xử lí. Phải tới mười lăm phút sau, xe cấp cứu mới tới. Những người trong đội cấp cứu mặc áo khoác
trắng của thành phố này đã quá quen với việc xử lí cho trẻ con ốm trong đêm. Họ trấn an Quyên bằng nụ cười hiền lành và mau chóng phát hiện bệnh
viêm họng cấp của con cô. Bệnh cũng chưa tới nỗi phải nhập viện. Họ tiêm một mũi cho đứa trẻ, đút viên thuốc giảm sốt vào đít và viết đơn thuốc,
rồi mau chóng trả lại sự yên tĩnh cho mẹ con Quyên.

Quyên đặt con vào nôi và ngồi bên con.

Đã hai giờ sáng. Phi kéo ghế ngồi bên đứa trẻ với vẻ lo âu thực sự. Họ im lặng bên nhau tới nửa giờ. “Anh đi ngủ đi” Quyên ái ngại cất tiếng. Gã
nhìn Quyên. Chỉ còn đèn tường vàng liu điu sáng, nhưng lại là thứ ánh sáng làm khuôn mặt Quyên sâu hơn, biểu cảm hơn. Phi bước tới bên giường và
ngồi bên Quyên. “Anh thức cùng em!” Gã nói và đưa bàn tay lần sang nắm lấy bàn tay Quyên.

Đàn bà lạ thật. Thời gian ở đây; đã năm sáu lần, sau khi ăn xong bữa tối, Phi đã nắm tay Quyên, kiểu cách tương tự như vậy, nhưng Quyên vẫn khước
từ, nhẹ nhàng gỡ tay gã ra. Theo Quyên, nếu người ta không yêu nhau thì không nên như thế. Cô thừa hiểu, điều đó sẽ dẫn tới cái gì. Thế mà đêm nay,
Quyên có yêu gã đâu, vậy mà cô cứ để yên bàn tay cô nơi Phi.

Con người ta, giữa hai giống, cái nắm tay nhiều khi cũng nguy hiểm như một nụ hôn. Bàn tay Quyên mềm mại và ấm. Lúc này, với tình trạng cô độc bấy
nay của gã, cái nắm tay như những giọt mưa xuân mà gã làm đám cát bị khô hạn. Sức nóng âm ấm ở nơi tay Quyên, y chang như có dòng điện rất nhanh
lan truyền sang tay gã và lập tức làm gã run rẩy.

Sự run rẩy của gã không che giấu được Quyên. Cô cảm nhận được dòng điện đang chạy trong gã. Cô nhìn sang. Khi ấy, gã cũng quay sang, bốn mắt gặp
nhau.

Cảm thấy cơ hội có một không hai đã tới. Phi ôm lấy hai vai Quyên. Bàn tay gã nóng. Gã kéo đầu Quyên ngả vào vai mình. Trong tích tắc, Quyên không
kịp suy nghĩ, cứ để đầu ngả yên trên vai gã. Cô ngửi thấy mùi đàn ông. Cô cảm thấy sức nóng đôi bàn tay gã xoa trên tấm lưng mềm mại của cô. Bản
năng bấy nay chìm xuống, giờ đây ở phút yếu lòng thường tình, Quyên thấy ấm lòng lên khi lâu quá không tựa vào vai một người đàn ông, lâu quá không
ngửi thấy gần thế cái mùi của kẻ khác phái. Cảm nhận đột ngột ấy làm nhịp tim của cô nhanh dần lên.

“Hôn, hôn ngay!” Gã tự nhủ. Đôi môi Quyên hồng, mọng, đắm đuối và hấp dẫn đó kia, gần lắm. Gã nhẹ nâng mặt Quyên lên và bất ngờ gắn vào đôi môi có
sức cám dỗ kinh hồn ấy một nụ hôn.

Quyên ngồi im. Cái hôn mạnh bạo, ngấu nghiến có một sức níu kéo tới kì lạ. Quyên chút xíu mềm oặt rũ xuống.

Không! Quyên giật mình, đẩy gã ra. “Anh đừng làm như thế!” Quyên quờ tay ra sau, tìm ở đầu giường, nắm phắt lấy cán dao dài mà cô thường để đó và
nhỏm phắt dậy, lùi ra xa, vung dao lên.

Phi nhìn Quyên. Rõ ràng, người đàn bà này có thể chém gã. Đôi mắt hiền nhung hôm nào, giớ ráo hoảnh nhìn gã không chớp. Khí sắc của con thú cái nhe
nanh tự vệ! Tích tắc, gã tự thấy chán chường và đau khổ. Gã bỗng sụp quỳ xuống thảm và, nhìn Quyên với đôi mắt tha thiết, vô cùng chân thật. Thốt
lên: “Xin em hãy giết đi! Tôi khổ lắm! Tôi bị… bị cắm sừng! Tôi như con chó vất vưởng. Tôi muốn có một gia đình êm ấm. Tôi không có ý định chiếm
em chốc lát. Hay là em chốn cùng tôi? Ta tới nơi nào đó, dựng quán và nuôi con, đẻ con và em làm vợ tôi”. Gã bật khóc. Khóc thật. Bao nhiêu nỗi
thương đau, căm thù bấy nay làm gã tự thương gã mà khóc.

Quyên ném con dao xuống đất. “Đàn ông mà khóc? Hèn thế! Nhưng gã cũng đau khổ như mình”. Quyên thoáng nghĩ, rồi chợt ôm lấy đầu gã.

ở chốn tha hương, con người ta, nếu trải qua ít nhiều khổ đau, trong tâm thế giống nhau, dễ trỗi lên thứ tình cảm như Quyên, dù nó mong manh,
thoáng lát; dù rằng, cô tự biết, cô không yêu gã. Cô chỉ xót xa chính thân phận mình để rồi thương gã.

ánh mắt Quyên dịu đi, cô kéo gã đứng dậy: “Thôi, anh đi ngủ đi. Mẹ con em biết ơn anh. Bây giờ chưa phải lúc nói chuyện vợ chồng”. Quyên nói với
gã. Giọng cô êm, nhẹ và bình thản. Người phụ nữ ở tuổi nào cũng vậy, dường như cái thiên chức của đàn bà, làm mẹ, làm chị bao giờ cũng thường trực
và, khi đó tiếng nói của Quyên cất lên như tiếng một người mẹ, hay lời chị nói với em, làm gã bình tĩnh lại.

Gã ngước mắt lên. Mắt gã đăm đăm nhìn vào đôi mắt Quyên. Gã thấy đôi mắt Quyên khi đó có gì tuy mơ hồ, nhưng tha thiết và vô cùng dịu dàng. Gã đứng
lên, thui thủi đi xuống nhà, tay chìu mắt khi nước mắt, nước mũi vẫn chảy ra giàn giụa.

Phi xuống gác rồi, gian phòng Quyên im lặng lắm, y như mẹ con Quyên đã yên giấc. Nhưng thực ra Quyên cũng chẳng thể chợp mắt.

Hai đêm nữa như vậy, kể cả đêm thứ ba con cô đã ngưng sốt và ăn sữa trở lại. Quyên cứ trằn trọc cả đêm.

Tối Chủ Nhật, con cô ngủ yên từ chín giờ. Nằm trên nệm êm ái mà Quyên cứ hết lăn sang trái lại lăn sang phải. Con người ta cần được chia sẻ, nhưng
khi như thế này, sao ông trời lại có thể để cô đơn độc tới vậy.

Không hiểu làm sao, cô lại nghĩ tới Hùng. Cô nhớ lại cánh rừng đầy tuyết, nhớ lại khuôn mặt đau khổ của anh khi áp đầu vào bụng cô trên con đường
trải thảm lá vàng ươm lạnh cứng. Rồi tự nhiên cô nhớ bàn tay thô, ấm áp của anh mỗi khi xoa lên bụng cô. Sự nhớ mang lại cho cô cảm giác ngày nào
về một con người cụ thể yêu cô ghê gớm và cao thượng. Nhắm mắt lại, cô giật mình nhận ra thật rõ ràng cái cảm giác đêm nào cô chẳng còn ghê tởm khi
gã đưa đường trườn lên cô. Khuôn ngực nở căng như hai bát úp và dâm dấp mồ hôi. Từng chi tiết đã chìm khuất cất giấu trong kí ức, của nhiều lần gã
làm cho cô khoái cảm tới tột độ, tối nay cứ tự nhiên ùa về, hiện rõ, giống như ai đó đang chiếu trước mắt những thước phim quay chậm. Tự nhiên cô
không kiềm chế được nhịp thở của mình. Cô nghiêng mình, khép chặt đùi và run lên. Nhưng lại có ý nghĩ vụt lên ngay khi đó, bảo cô không được tưởng
tượng vẩn vơ nữa. Quyên ngồi dậy, tự cấu vào hai đùi mình, nơi có hai vết sẹo. Cấu rất mạnh và không sao dập tắt nổi sự thèm khát thèm được thoả
mãn, được ân ái đang trỗi mạnh như ngọn lửa cháy lem lém từng giây đang đốt nóng thân xác cô. Bất lực, cô không véo vào đùi nữa. Cô run rẩy khi nhớ
lại cảm giác lúc đôi bàn tay Hùng xoa cuồng điên, gấp gáp lên bầu vú, tự tưởng nhớ lúc đôi môi nóng ấm của gã cứ mút chặt vào hai đầu ti hồng mơn
mởn… Hoàn toàn vô thức, tay cô từ từ đưa lên. Cô chầm chậm bật nút áo, hai bàn tay tự xoa vào bầu vú của mình. Rất chậm! Quyên nhắm mắt lại…

Lát sau, khi cô hồi tỉnh, hai hàng nước mắt chợt tứa ra.

Đúng khi đó đứa trẻ lại thức dậy và nó ú ớ kêu lên. Quyên bật dậy. Cô nhao tới bên con và bế nó lên chao nó trong đôi tay của mình. “Mẹ đây!” Quyên
rối rít cất tiếng. Đứa trẻ ngừng khóc. Quyên bế nó lên, bước ra cửa sổ. Bên ngoài đường phố đêm không một bóng người, mọi vật đứng im phăng phắc,
hệt như một đường phố chết. Trời ơi, cuộc đời cô sao buồn vô vọng! Gian phòng âm âm tiếng ru nho nhỏ khi Quyên cất tiếng. Không biết đó là tiếng
Quyên ru con, hay là cô đang tự ru cho mình chẳng biết:

– Buồn chi một nỗi tháng Giêng… (à… ơi… ơi a…) /Con chim cái cú… (ứ… ư… …a..) nằm nghiêng thở dài…

Những ngày sau đó Phi vui hơn. Buổi sáng gã dậy sớm để chuẩn bị cho quán xá, cho mẹ con Quyên ăn sáng. Gã hay huýt sáo. Những bài hát ẩm ướt, sặc
mùi tình ái mà gã nghe đi nghe lại trong băng Thuý Nga Paris By Night.

Quyên thường thức dậy sau gã. Nhiều buổi sớm trên gác, nghe thấy điệu sáo của gã vọng lên, Quyên muốn bật cười mà không cười được.

Giữa Quyên và gã là hai thế giới khác nhau, hai vùng đất khác nhau có biên giới, khó thể hoà hợp. “Phi xuất thân từ nông thôn. Nông thôn thì môi
trường văn hoá đơn giản, mộc mạc, nên tâm hồn gã chỉ có thế!” Cô nghĩ, được cái, ở sâu kín trong con người như gã, vẫn còn điều quý giá dễ nhận ra,
đó là tấm lòng của gã với mẹ con cô trong cơn hoạn nạn. Đó là sự thẳng thắn bộc bạch những khát khao đơn giản, khát khao chồng vợ. Nó khiến cô mủi
lòng. Câu chuyện của gã, về người vợ và nhân tình của vợ, chiều hôm kia gã tâm sự làm cô trằn trọc. Cô cũng đồng ý với gã rằng, ở Việt Nam, nếu còn
trong cái làng ấy, họ có thể còn là một gia đình. Dù không êm ấm nhưng dự luận làng xa, “mối gắn kết hàng ngàn năm, đầy quy phạm ở những điều không
văn tự, hay được ghi trong văn tự tương tự như hương ước” tuy chỉ là một thứ luật sơ khai của một cộng đồng, mà tính liên kết chòm xóm, địa phương
nhiều hơn tính luật pháp chặt chẽ của một xã hội văn minh phát triển, cũng đủ sức câu thúc, đủ để có thể giảm nhanh ở phần bản năng sung mãn của
con người. Nhưng cô cũng manh nha nhận thấy, mọi tập tục sinh ra và phát triển trong luỹ tre làng ấy, dường như chẳng có tính bền vững, nếu cư dân
của nó bứt ra khỏi luỹ tre, hàng cây bao vây cái làng. Nó mất đi tính bền vững, tàn úa ngay khi họ rời làng lên thành thị, ngay trong lãnh thổ của
tổ quốc. Nó, thứ nghiêm luật làng xã ấy còn lại bao nhiêu ở nước người, khi mà ở đây, người ta nhắm mắt hay không quan tâm tới những gì người Việt
như cô quan tâm? Cảnh trí khác biệt, con người khác biệt, trật tự suy nghĩ, khao khát, ước mơ, sự quan tâm thường nhật giữa người bản địa và những
người Việt cũng nhiều thứ dị biệt và, người Việt như cô, nhằm tồn tại với miếng cơm manh áo, đã phó mặc bản năng hành động? Nhưng bản thân cô cũng
không thể lí giải vì sao, nó lại như vậy? Vì sao, khi mà chính bản thân cô cũng là nạn nhân, rơi vào sự tan rã quan hệ với chồng, với cả những
người Việt và nếp sống của họ hình thành trong trại bấy nay, trên đất người ta. Nếp sống có tính bầy đàn của những kẻ vượt qua sông tìm vùng đất
mới, trong tầm hạn hẹp của nhận thức, đã bộc lộ biết bao điều bấp cập khiến cô nghi ngờ chính bản thân cô. Cô thấy rõ những kẻ đồng hương của cô
thiêu thiếu một điều gì đó, điều gì đó có tính rộng khắp, bao trùm lên toàn thể cộng đồng của cô. Những mối quan hệ giao du đầy bất trắc và nham
nhở, khiến chính cô cũng canh cánh đề phòng tất cả.

Cô phải ra đi thôi.

Quyên không thể ở với Phi với tư cách là vợ hờ của gã. Sống như thế không thể hạnh phúc!

Chính từ những câu chuyện xảy ra ở đây do Phi kể lại, Quyên nhận ra, theo cô, tình yêu là “trạng thái người” nhiều bí ẩn khó lí giải. Cũng theo cô,
có nhiều ngả dẫn tới trạng thái đó, nhưng hôn nhân phải có cái gốc từ tình yêu, cần có sự tìm tới nhau hết sức tự nhiên của hai cá thể khác giống.
Mọi sự chắp vá, gá mượn, do hoàn cảnh tạo nên, mà xuất phát điểm không có cái gốc là tình yêu, kể cả ham muốn có một gia đình, điều tưởng chính
đáng của Phi, khi bị thời gian bào mòn, trước sự xâm thực của một văn hoá khác lớn hơn, mà người ta chưa hiểu sâu sắc nó, thì mọi sự gá mượn, chắp
vá, tưởng bền vững ấy, sẽ vỡ vụn, tan biến, thậm chí có thể dẫn tới kết thúc đầy bi kịch. Những câu chuyện của Phi kể về bao gia đình trên xứ này,
từ thời ở quê hương, còn là một gia đình của anh ta, tới hôm qua và hôm nay, khi gần hai vạn Thợ khách ở lại, làm Quyên nhận ra điều gì đó không
ổn. Cô không thể gá với Phi, dù gã đã cho cô cảm giác dần dần nhận ra, gã vụng về, thô kệch, xù ráp, nhưng là một người không xấu, thậm chí giàu
tình cảm. Nhưng điều đó chỉ làm cô thương gã. Cô có thể nói thật với gã và tìm cách trả ơn gã sau này được không? Quyên có bao nhiêu giây phút băn
khoăn, suy nghĩ như thế, mà chưa có dịp để nói ra điều ấy. Nhưng có lẽ, phải chuẩn bị trước, nếu muốn rời bỏ nơi này. Hay là cô về trại? Không
được! Về trại tị nạn, cô lại phải nhìn thấy những bộ mặt cô biết trong cái tuần đầu tiên đau đớn khi tới thành phố này tìm chồng. Mà nhỡ ra, lại
gặp chồng cũ của cô thì sao? Vậy đi đâu nhỉ? Cô chẳng thể đi đâu được, vì cô chưa có công ăn việc làm, không đủ tư cách để thuê một cái nhà riêng ở
thành phố này hay bất cứ nơi nào trên nước Đức. Cô mong cầu cho con cô lớn nhanh lên. Nhiều khi, cô lầm rầm lạy trời, cầu cả người mẹ còn sống của
cô ở Hà Nội. Những suy nghĩ quẩn quanh như thế làm cô bế tắc bà chạnh nhớ mẹ nhiều hơn. Cứ nhớ mẹ là nước mắt cô tự ứa ra, chảy xuống, rất đỗi mịn
màng. còn đẹp lắm của cô.

Phần 7

Tháng Mười Hai, có những ngày tuyết rơi suốt. Đêm đem, nghe gió thổi hun hút, hú dọc phố vắng khiến Quyên luôn thấy ớn lạnh, dù trong phòng, nhờ
đường sưởi nước nóng thành phố, vẫn ấm áp. Nhiều khi cô không đủ can đảm nhìn ra ngoài cửa sổ. Đường phố toàn một màu trắng phớt.

Phi cũng hay nhìn ra đường phố và nóng ruột lo lắng. Gã cứ lên lên xuống xuống, ra ra vào vào cằn nhằn rằng, từ nay tới Noel, có tất cả những sáu
ngày nghỉ và gã sẽ đóng cửa hàng. “Tuyết rơi nhiều quá thì chẳng có ma nào tới ăn quán cả!”

Những bữa tuyết băng nhiều quá phải đóng cửa quán, tự nhiên cả hai thấy các căn phòng như rộng ra, trống trếnh. Nhất là khi con Quyên ngủ, ngôi nhà
im lặng như nhà mồ. Bên ngoài trắng phớ. Tường nhà xung quanh họ cũng trắng phớ. Cái lạnh không phải chỉ từ ngoài ngấm vào. Cả hai đôi khi như hai
cái bóng lạnh bên nhau cả vài giờ. Phi mua thêm một cái ti-vi Sony 19 inch đặt trên phòng Quyên. Cũng đôi khi, Phi xem phim cùng mẹ con Quyên.
Thường là chỉ tới mười giờ, gã ý tứ xuống phòng dưới. Cũng may là từ sau đợt viêm họng lần đầu, hình như đứa con Quyên cứng lên và thích nghi với
môi trường ở đây, như “tre qua đốt”, ăn ngủ rất ngoan.

Đêm ấy tự nhiên trên gác trên mất điện đột ngột. Chiếc đèn xanh của chiếc máy ủ nóng sữa ăn đêm của con cô tắt ngấm. Đèn xanh mờ bên ổ điện cũng
tắt. Quyên dò dẫm ra cửa bước xuống cầu thang. Cô đoán, có thể automat của tầng hai sập xuống như hôm nào.

Phi trước màn hình. Gã nằm ngửa và qua ánh sáng hắt ra từ màn hình, Quyên đủ nhận ra gã đang làm gì.

Cảnh tượng ấy làm Quyên hoảng hốt. Cô chợt hiểu, rất hiểu. Cô chạy gấp lên gác và thở mạnh. Tiếng chân của Quyên làm Phi giật mình. Gã chớp tắt vô
tuyến. Sượng sùng kéo quần lên và chạy lên gác.

Trong bóng tối, ánh sáng từ đèn đường qua cửa sổ, đủ để gã nhận ra bóng Quyên ngồi, như pho tượng bên mép giường. Hình như cô đang giơ tay giữ
ngực. Có lẽ cô ta ghê tởm lắm. Gã đột ngột sụp quỳ xuống, nói như khóc:

– Em ơi, hãy tha thứ cho anh. – Im lặng giây lát, gã nói tiếp: – Nếu như em là đàn ông, rơi vào hoàn cảnh như anh, xin em hiểu cho… – Gã ấp úng –
Tôi… anh, không làm thế nữa! Anh van em. – Gã lê gối, bò dần tới sát chân Quyên.

Không nhận ra khuôn mặt Quyên khi ấy. Trong lòng cô trào lên một cảm giác khó tả. Thương gã ư? Không phải! Ghê tởm gã ư? Không phải! Cô muốn rời xa
ngay xứ sở này. Có gì xa xót, xiết nghẹt, bóp chặt trái tim cô. Quyên mím môi, cô không bật ra tiếng khóc. Cô hít thở thật sâu, lấy lại bình tĩnh.

– Anh chữa lại điện đi, Automat có lẽ bị sập rồi! Quyên cất tiếng.

Im lặng tới dăm phút. Phi đứng dậy, nhanh chóng xuống gác. Gã tìm được nguyên nhân mất điện, gẩy lại thanh tự động đã sập xuống để tầng gác có điển
trở lại rồi len lén đi nằm trên chiếc giường gấp, loại ba tấm đệm dầy; hôm nào Quyên mua ở cửa hàng chăn nệm thành phố bê về cho gã.

Trên gác, Quyên vẫn trằn trọc.

Cô phải đi thôi. Cô không nên nấn ná ở đây. Có thể tới Sở ngoại kiều, trình bày thật hoàn cảnh của cô để chuyển trại. Cách xa đây, hai trăm cây,
nghe nói có một trại nữa, heo hút trong cánh rừng, ít người Việt Nam. Càng ít người Việt càng tốt! Cô nghĩ như thế rồi nhắm mắt đếm. Lát sau Quyên
chìm trong giấc ngủ.

Thứ ba, Quyên tới Sở ngoại kiều.

Trên đường đi cô vẫn còn suy nghĩ, cấn cá việc có nên nói rõ lí do chuyển trại hay không. Bấy nay, từ những tiếp xúc ở quán, cô cũng thoang thoáng
nhận ra rằng, người Đức, đại đa số nguyên tắc, sống không lắt léo và rất ghét sự dối trá, ghét lối sống không có kỉ luật. Nhưng không phải họ sắt
đá tới mức không có tình cảm, dù rằng có lần, có kẻ, qua nhiều lần làm việc với họ, thuật lại cho Quyên cảm giác khi nghe tiếng nein (không) phát
ra từ họ đầy lạnh lùng. Cầu trời, cầu phật, biết đâu hôm nay cô gặp một người có lòng trắc ẩn, có thể hiểu cô.

ở hành lang chờ đợi, dăm người đồng hương đi trái vùng bị thu giấy thông hành tạm thời đang nhăn nhó, chửi thề bằng giọng miền Trung. Một người Đức
đang nói gì có vẻ bực bội với một thanh niên Châu á, có vẻ là người đồng hương của cô. Quyên len lén bế con ngồi vào ghế đợi trước phòng tiếp khách
vần Q. Cô rất sợ những người đồng hương tới vấn an. Nếu họ hỏi thì sao, có nên xổ ra vài câu tiếng Hoa và lắc đầu tỏ ý chẳng hiểu không? Quyên suy
nghĩ. Nhưng có ai hỏi cô đâu, dù rằng có hai ba kẻ liếc nhìn cô. May thế! Quyên quay mặt đi.

Rõ là may mắn?! Nhân viên Sở ngoại kiều tiếp cô là một người đàn ông thạo tiếng Anh. Ông ta có bộ râu quai nón đen xanh và đôi môi tươi, mắt sâu,
hơi nâu. Ông cứ nhìn người đối thoại như cười cười. Quyên rất khó khăn trong việc kể lí do cô muốn chuyển trại. Tất nhiên, những việc như trốn khỏi
viện, chuyện chồng cô mất tích, việc cô đang ở với bạn trai, cô phải nói hết, vì cô biết, với sự liên lạc, thông tin nối mạng có tính quốc gia,
quốc tế của Đức, chỉ cần nhấp chuột là khó có gì có thể giấu được họ.

Người đàn ông lắng nghe rất chăm chú. Đứa trẻ trong tay Quyên ngọ nguậy và tỉnh giấc. Nó ngóc cổ lên, đôi mắt tròn xoe, đen lay láy, hết nhìn mẹ
lại nhìn rướn sang người đàn ông Đức và nở một nụ cười.

Nụ cười của trẻ con dường như gợi mở cho con người ta một thế giới khác. Thế giới của những niếm khao khát tốt đẹp, không lo âu, ưu phiền, thánh
thiện. Nụ cười của đứa bé làm tay cán bộ Sở ngoại kiều bất chợt thấy vui, tăng thêm thiện cảm với người đàn bà Việt có khuôn mặt khả ái, dịu dàng
kia chăng? Ông ta lắc lư mái đầu, lại nháy mắt như muốn đùa trêu hay làm thân với đứa bé, rồi cúi xuống mở ngăn kéo, lấy ra một con búp-bê nhỏ đưa
cho con Quyên: “Thôi, bà đưa con về đi. Tuần sau tới sẽ nhận được giấy tờ chuyển trai. Chúng tôi đồng ý”.

Quyên bước ra khỏi Sở ngoại kiều, không hiểu sao đường phố bỗng trở nên ít lạ lẫm hơn. Cũng những đám cây ôn đới nở rất nhiều hoa vào mùa xuân trên
hè phố, hôm nào khi chúng rực rỡ sắc màu, đẹp lắm mà cô vẫn buồn, chưa bao giờ thấy là của cô, để chiêm ngưỡng, để thưởng thức, thế mà giờ đây, dù
giữa mùa đông, khi chúng xác xơ cành lá, cô lại thấy chúng không xấu xí, đáng ghét, thậm chí nhìn chúng tiêu điều trong giá buốt, cô bỗng trào lên
cảm giác như được chia sẻ mà ấm lên, vợi đi sự trống vắng, giá lạnh nhiều khi tăng lên bởi sự cô độc thường trực trong cô bấy nay. Tự nhiên, cái
cảm giác ở trọ xứ người thốt nhiên biến mất trong giây lát. Quyên vui. Cô đưa tay nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của con, vẫy vẫy bàn tay con và chỉ sang
bên kia đường, nơi trước một cửa hiệu có dàn trống, kèn, dăm ba người Đức mặc quần áo cổ truyền, đang chơi những bản nhạc vui nhộn: “Tùng cắc rinh,
tùng rinh tùng…”

Chiều hôm đó Quyên rất phân vân. Có nên âm thầm trốn khỏi nhà Phi không, hay phải nói cho anh ta biết. Không, anh ta là người tốt. Có lẽ không nên
lặng lẽ chạy trốn. Người ta đã cưu mang hai mẹ con như thế, lẽ nào cô lại trốn chạy như một kẻ vô tình. Sẽ phải lựa lời mà nói cho anh ta hiểu, sự
ra đi của Quyên là điều có lợi cho cả hai bên. ừ, biết đâu đấy, tới một thời gian nào đó, nếu anh ta thực lòng yêu, Quyên cũng có thể thay đổi quan
niệm về anh ta. Với Quyên, giờ đây không có điều gì bất biến, ngay cả khái niệm chung thuỷ trong tình yêu, tình vợ chồng, nếu chị dựa vào sự chịu
đựng, nhẫn nhục của phụ nữ cũng là một khái niệm phù phiếm.

Buổi tối Chủ Nhật, Phi đóng cửa hàng từ bốn giờ chiều. Đúng ra, gã chẳng muốn có giờ nghỉ, thậm chí còn mong tuần có tám ngày. Cái nếp sống không
bao giờ có ngày nghỉ ngơi ấy, không phải chỉ riêng gã, mà của biết bao người Việt bấy nay, khi họ sang đây, xứ sở này, với mục đích kiếm tiền,
nhanh chóng có thật nhiều tiền, để tải về nhà, vô hình trung tạo nên một kiểu sống gấp gáp, tạm bợ, đầy cơ hội. Họ dường như quên phắt cả bản thân
họ, quên sạch nhu cầu tối thiểu của con người là cần nghỉ, chơi bời đâu đó để thư giãn, cả về tinh thần và thể xác, thì nói chi tới các nhu cầu
nghệ thuật, văn hoá khác mà người ta sống trên đời cần phải được hưởng thụ, di dưỡng tâm hồn. Nhưng từ ngày có Quyên, gã muốn mỗi tuần ít ra có một
tối quây quần và nấu một bữa thật ngon. Tuần này, gã tha lôi về một con cá măng khá lớn và phăm phăm mổ cá, lọc xương, để bữa tối gã sẽ tái hiện
món chả cá Lã Vọng, món cá mà Quyên có vài lần nhắc tới, kể cho gã nghe. Sự mong muốn vô cùng nhỏ nhặt ấy, không chỉ là ước muốn tìm thấy niềm vui,
niềm hạnh phúc từ trong nội dung sống bình thường, đã ít nhiều giúp chính Phi và cả Quyên được hưởng chút ít không khí gia đình, cái không khí khi
họ còn ở quê nhà, và đặc biệt hàng ngày, giúp họ đỡ lặp lại nhịp sống vốn tẻ nhạt, đơn điệu.

Quyên cho con ăn xong, dỗ cho nó ngủ rồi xuống giúp Phi.

Bữa cơm tối thật vui vẻ. Họ nhẩn nha ăn từ bảy giờ tối và cùng nhau uống gần hết chai vang trắng. Gã luôn tay gắp cho Quyên.

Không như mọi lần, chẳng bao giờ đụng môi vào chất cồn, đêm nay Quyên cũng uống tí chút. Điều ấy làm gã vui lắm, đổ hết chén này tới chén khác vào
miệng.

– Anh Phi này. – Quyên cất tiếng, đôi mắt cô chợt nghiêm trang khi bắt đầu câu chuyện.

Gã nhổm lên về phía Quyên:

– Có việc gì thế em?

Quyên ngần ngừ. Cô cảm thấy rất khó khăn: nên bắt đầu với gã như thế nào? Nhưng cô không phải loại người bạc bẽo. Cô không thể lặng lẽ bỏ ra đi. Dù
thế nào, cô cũng phải cho gã biết, và nhất là phải bày tỏ lòng biết ơn của mẹ con cô với gã. Quyên nhìn xuống mặt bàn, nơi có chén trà hiệu Anh Đào
mà gã vừa pha cho cô còn bốc khói:

– Anh Phi này! – Quyên nhìn ra ngoài cửa sổ – Bấy nay mẹ con em thật biết ơn anh. Anh đã làm cho mẹ con em nhiều quá. Nhưng em không thể ở lại đây.
Anh biết đấy, em sẽ chỉ làm khổ anh thôi. ừ, mà em cũng khổ. Tuần tới em đi trại khác rồi. Em không muốn bỏ trốn nơi đây như trốn khỏi bệnh viện.
Em muốn anh biết và hiểu cho em. Suốt đời, mẹ con em biết ơn anh đã cưu mang.

Nói tới đấy, mắt Quyên rơm rớm.

Phi sững sờ nghe cô nói. Gã nghe như nuốt từng lời. Mặt gã tái dần khi nghe hết những lời chậm rãi của Quyên và gã hiểu, đó là những lời nói rất
thật, khó thể thay đổi ở con người bấy nay gã ngưỡng mộ, khao khát và khâm phục. Gã nhìn vào khuôn mặt, khoé miệng, đôi môi mọng của cô, nhìn vào
đôi mắt đẹp, xa xăm, huyền ảo và nhận ra Quyên đang chân thành đến xúc động. Cái thứ người đàn ông như gã rõ ràng hèn yếu, sao mà chịu được nước
mắt đàn bà, nhất là nước mắt ấy lại của Quyên. Gã đau đớn. Từng lời nói của cô làm mọi hy vọng, khát khao của gã tan biến. Trái tim gã như bị bàn
tay ai đó nắm chặt, bóp nghẹt.

Nhưng Quyên đang ngồi đối diện với gã. Giọt nước mắt của người phụ nữ đẹp rớt xuống làm gã run rảy và trong lòng gã trào lên một niềm thương xót vô
bờ. Bất chợt, gã đứng dậy, tiến tới bên Quyên và thụp quỳ xuống sát đầu gối Quyên. Không một lời, hay tay nắm lấy hai bàn tay Quyên. Mắt gã ráo
khô, nhưng rõ ràng đầy đau khổ, ngước lên nhìn cố: “Thôi, xin em đừng khóc nữa! Anh đau đớn lắm. Anh van em!” Nói xong câu ấy, gã như vơi đi gánh
nặng và gã gục đầu trên hai đầu gối của Quyên.

Chỉ trong ba bốn giây thôi, ngôi nhà bỗng trở nên im ắng kì lạ. Cả hai con người nghe rõ tiếng tích tắc của đồng hồ tường, tiếng con tim đập chậm
rãi của chính họ. Quyên cũng thấy xót xa. Cô thương mình, nên thương gã. Hai tay cô bỗng tự nhiên ôm nhẹ lấy đầu Phi, áp vào lòng cô. Bấy giờ trong
lòng cô nảy ra một ý định kì lạ. Cô nâng mặt gã lên và hôn vào môi gã một nụ hôn rất nhẹ nhàng.

Cái hôn ấy thực cực kỳ nguy hiểm. Nó lập tức làm Phi run rẩy, tạo nên một sức mạnh khủng khiếp, giúp gã đứng dậy. Lập tức, gã kéo Quyên đứng lên và
ghì chặt lấy thân hình mềm mại, đầy tố chất đàn bà, người mà gã khao khát bấy nay. Hai khuôn mặt đối diện nhau trong giây lát. Phi chẳng thể kìm
được, gã đưa tay lên và vuốt nhẹ lên mái tóc, sau gáy, sờ sẫm trên mặt Quyên, mắt, môi, cả gò má và những sợi tóc mềm đen như đêm . Và làm sao mà
cưỡng được, gã hôn. Cái hôn say đắm, nồng nhiệt của gã, sau những mơn trớn, ve vuốt, tràn ngập thèm khát và yêu thương kia, cô làm sao từ chối
được.

Trong vài giây thôi, Quyên mềm ra trong vòng tay Phi. Hơi thở thơm tho của cô tràn lên khuôn mặt Phi. Tim cô đập nhanh hơn, mặc cho gã đẩy cô nằm
ra tấm thảm giữa đám bàn ghế của tiệm ăn nhanh. Chuyện này cũng bình thường. Lát sau tấm áo của Quyên rơi xuống, lộ ra đôi vú trắng hồng, mây mẩy,
đầy đam mê, khơi gợi và thúc giục Phi. Trong con người Phi bấy giờ thoắt trào lên từng đợt sóng, sẵn sàng cuốn phăng Quyên, xoá nhoà mọi mặc cảm
của Phi, lẫn dự kiến của Quyên. Giờ đây, chỉ còn lòng ham muốn, khao khát của hai con người cô độc đã quên đi mọi điều vướng víu, bận bịu trước đó.
Họ, như trăm ngàn con người trên cõi thế gian này, trong vô thức, tìm thấy không chỉ cõi hoan lạc, vốn là món quà tạo hoá ban tặng, mà là sự giải
toả tâm trạng cô quạnh, như con đập tràn nước bấy nay bị dồn ứ, kìm hãm. Sự thể diễn ra tự nhiên lắm, nếu ai không rơi vào hoàn cảnh những kẻ lạc
loài, bạt xứ, trong tận cùng cô độc, khó mà có thể hiểu nổi để thông cảm, chia sẻ cùng họ.

Thực ra, sau này nghĩ lại những hành vi của cô trong giờ phút đó, Quyên cũng chưa yêu Phi. Cô cũng chẳng ý thức khi đó là bản năng hay trong cô khi
đó chợt loé lên ý định: “Để Phi yêu một lần, như sự trả ơn của cô”. Có thể điều đó vừa là sự thức dậy của bản năng và cũng là cô định trả ơn, bởi
vì việc cô định ra đi là điều không có gì có thể lay chuyển. Sự thể tất nhiên chắc sẽ đi đến tận cùng cái năng lực nhục dục của cả hai, khi Phi
trườn lên người Quyên, lên tấm thân ẩm nóng, trắng ngần không một mảnh vải.

Đúng thời khác có thể cho Phi niềm hạnh phúc vô bờ, thoả mãn sự khao khát bấy nay của Phi, thì cửa tiệm bật mở và tất cả đèn quán bỗng sáng bừng
lên. ánh sáng chói loà của hơn hai chục chiếc đèn nê-ông, bừng soi tất cả gian phòng quán ăn hơn bốn chục mét vuông.

Nguyễn Du thật trải đời khi nói về cái ghen của cõi người: “Chữ tài chữ mệnh khéo là giết nhau”. Cái sự ganh ghét, thường tiềm ẩn, vốn như quy luật
mà thi sĩ hát hiện ra kia, ở cõi đời của những loai người bụng dạ hẹp hòi như lỗ kim, loại người như Thị, đêm nay trước một người đàn bà khác, đẹp
gấp nhiều lần hơn, quả là mối nguy hiểm chết người đối với Quyên.

ánh sáng chói chang của hơn hai chục ngọn nê-ông bừng lên bấy giờ, chính do bàn tay Thị nhấn công tắc quá quen thuộc vài năm nay.

Việc Thị xuất hiện cũng thật vô tình. Đã nửa năm, Thị không tới quán, nơi Phi làm “đại sứ”. Nhân vãn chùa Hanover, để một chiều làm phật tử, Thị
bỗng nổi hứng, muốn tạt vào quán Phi nghỉ. Thị tính, từ chùa tới quán của Phi gần được nửa đường, thuận tiện hơn là từ chùa chạy về nhà hàng hai
trăm cây số, nơi đại bản doanh của Thị.

Khi ánh sáng đột ngột tràn ngập. Quyên giật mình, nhỏm phắt dậy. Cô không một mảnh vải che thân. Ngồi giữa cái thảm màu huyết dụ, thân thể cô nổi
lên, trắng ngần, tựa như một bức tượng sống.

Trong chớp mắt, gã tình nhân của Thị cũng ngây người. Gã, Y như bị thôi miên lập tức khi giữa quán bỗng bừng lên, trước mắt hắn, rõ như ban ngày,
một người đàn bà khoả thân, như có phép thần hiện ra, chói loà từ bóng đêm. Tích tắc, hắn bị hút mắt vào khuôn mặt đẹp dịu dàng, đôi mắt thăm thẳm,
mái tóc đen như mun, đôi bờ vai thon và, đặc biệt cặp vú trắng hồng, cương cứng, đầy đặn, như muốn chọc mù đôi mắt hắn.

Sự thể diễn ra rất nhanh. ánh sáng đột ngột làm Phi chói mắt và hoảng hốt. Gã ngơ ngác nhỏm dậy, không kịp có thời gian để phản ứng.

Đôi trai gái loã thể hiện ra đột ngột trước mắt thoạt đầu cũng làm Thị hơi hoảng hốt, ngạc nhiên. Nhưng chỉ vài tích tắc, Thị định thần và nhận ra
Phi. Lập tức đôi mắt Thị long lên. “à ha, hoá ra mày. Ai biết ma ăn cỗ!”

Nó, Phi, bấy nay là miếng xương thừa thối tha, bẩn thỉu, không gặm được nữa, nhưng Thị cũng quyết không quẳng miếng xương ấy cho kẻ nào, kể cả một
con chó ghẻ tới nhai. Đằng này Thị nhìn rõ pho tượng mỹ nhân kia, cái con đĩ rơi đĩ rụng kia. Khốn nạn thay, Thị cũng nhận ra, người đàn bà kia có
thân hình hơn đứt thân hình đã nhão nhoét, ục ịch của Thị. Bực hơn nữa, khi Thị nhìn thấy rõ Y, thằng bồ của Thị, cứ hau háu dán mắt vào con đĩ như
bị thôi miên. Máu Thị không dưng sôi lên, cổ họng như có gì chèn tức. Thị gào lên.

– Trói, trói… trói con đĩ lại!… Còn đứng mà ngắm nó nữa hả thằng mặt l. kia!

Tiếng hét của Thị làm Y sực tỉnh. Cậu em Y như con chó nòi được lệnh chủ, nhao phắt tới bên Phi và Quyên, Lập tức, đám quần áo của Phi và Quyên,
cơi ra trước đây vài phút, bị đá tung ra xa. Y nhảy xổ tới. Y tóm, xoắn mớ tóc mun đang xoã ra, kéo thốc Quyên lên, mặc cô oằn mình, ưỡn thân đau
đớn.

Thị thấy hành động Y hừng hực như vậy, cũng nhao tới, cầm chặt cái túi xách hiệu Boss, có chiếc khoá mạ vàng 17 cara, quật lấy quật để vào mặt Phi,
đẩy cái anh chồng khốn nạn lùi mãi vào góc tường.

Đêm khuya vắng. Những âm thanh lạ không có lối thoát, vọt lên gác, làm đứa trẻ thức giấc. Nó ngơ ngác nhận ra bên nó không có mẹ. Đứa trẻ đạp chăn,
rồi khóc ré lên. Thị nhận ra lập tức tiếng khóc ấy. Thị nhao lên gác hai. Trước mặt Thị là một đứa trẻ mới dăm tháng tuổi đang khóc thất thanh. Đôi
mắt Thị loé lên những tia mắt ác độc:

– Đưa con đĩ lên đây! – Thị lại gào lên.

Quyên vẫn cố gắng quậy đạp, hòng thoát khỏi đôi tay đen, cứng như hai gọng kìm của Y. Hắn bẻ quặt tay cô ra sau lưng và giật mạnh tóc làm cô đau
đơn ngửa đầu về phía sau.

Thực ra khi đó, Quyên hết sức bất ngờ, đầy lúng túng. Cô không còn nghĩ ra được điều gì hơn là chỉ hết sức vùng vẫy, dù đó chỉ là sự kháng cự vô
vọng. Nhưng tiếng khóc của con đã kéo cô trở về thực tại. Nó kêu gọi bản năng của một con cái biết hành động khi nghe tiếng con mình. Bất ngờ, cô
cắn mạnh vào tay Y. Cú cắn như rứt thịt làm Y buông cô ra. Chỉ mong như thế, Quyên vùng khỏi tay Y, nhao lên gác, chạy về hướng, nơi có tiếng con
gái đang khóc ré lên. Cô không còn nhớ ra, khi đó cô không còn mảnh vải che thân.

Nhưng khốn nạn thay cho Quyên. Bước chân của cô sao nhanh bằng thằng đàn ông của Thị. Tới đầu cầu thang, Y đuổi kịp Quyên, Y vươn tay nắm lấy tóc
người đàn bà yếu đuối, giật ngửa Quyên ra. Cô như con cá ngớp ngớp trong lòng tay Y. Y cười vòng tay trái ôm lấy ngực Quyên. Bàn tay đen, to như
tay hộ pháp ấy, bóp chặt vào bầu vú trắng căng, rắn chắc. Y thót bụng, tay kia Y tháo dây lưng. Quyên vẫn vùng vẫy. Y buông tay khỏi bầu vú, bẻ tay
Quyên ra sau lưng và quấn nhanh mấy vòng thắt lưng, trói nghiến lại, đẩy cô vào phòng

Phần 8

– Trói nó vào chân giường! – Thị lạnh lùng ra lệnh, mặc dù mụ cũng chẳng biết chói cô để làm gì.

Hạ nhục kẻ khác! Đó là thói thường làm của Thị, cũng như bao kẻ khác như Thị, vốn sinh ra đầy lòng hậm hực, chưa bao giờ bằng lòng với những tham
muốn của cái đời sống bất trắc bấy nay.

Nghe tiếng khóc của con Quyên, Phi choàng tỉnh. Anh cố chạy tới theo gần sát bước chân Y. Nhưng sự vội vã của gã, làm gã tự giết mình. Phi bước
hụt, trượt ngã trên cầu thang và lăn xuống chân cầu thang như con cù, đầu đập vào bức tường. Phải tới vài giây sau, gã mới định thần lại và chạy
lên đầu cầu thang. Gã thấy Quyên của gã đang tuyệt vọng quẫy đạp trong sợi dây trói cô vào chân giường ngay cạnh chiếc xe nôi. Quyên như bừng tỉnh
khi nhìn thấy Phi. Cô không giãy giụa nữa. Cô vô cùng thất vọng và tự nhiên nước mắt cô đổ ra chan hoà. Không một tiếng động. Ánh mắt Quyên, cảnh
tượng Quyên khi đó, làm Phi đau đớn. Tựa như ở đâu bỗng có trăm ngàn mũi dao thọc sâu, đâm nát tim gã.

– Thả cô ấy ra! – Phi gào lên bất lực.

Thị cười. Tiếng cười của một kẻ đắc thắng, man dại vỡ ra, xoe xoé, chập chờn trong gian phòng kín như bưng. Cảnh tượng Y chống chế người đàn bà
kia, khuôn mặt thê thảm của Phi, vẻ nom dáng thảm hại, đau đớn của người đàn bà loã lồ… tất cả, làm Thị khoái cảm, thỏa mãn. Khoái cảm của Thị
càng tăng trong tiếng trẻ khóc ré lên.

Phải giải thoát Quyên! Phi nghĩ và lao tới bên Y. Nhưng Phi làm sao thắn được sức mạnh của con đực mạnh mẽ như Y. Mới nửa cái đấm của Y đã làm gã
lộn mấy vòng. Không hiểu nghĩ thế nào sau cú đấm thứ hai của Y, gã lồm cồm bò như một con rệp, lê gối tới người vợ hờ của gã: “Tôi van bà! Tôi lạy
bà! Xin hãy tha cho mẹ con cô ta!”

Thị lại cười gằn. Mụ co chân, đạp thẳng vào đầu gã.

Trong mắt Thị bấy nay. Phi giống như một vật thừa trong nhà. Một kẻ ngu đần và hèn nhát! Thị luôn ra lệnh và Phi như một kẻ đầy tớ, răm rắp, ngoan
ngoãn vâng lời Thị. Bảo gật là gật, bảo vâng là vâng. Thị bảo, gã bên Thị, gã răm rắp nghe lời bên Thị; Thị bảo gã đi làm quán nơi xa cho khuất
mắt, Phi cũng ngoan ngoãn vâng lời. Thế mà giờ đây, rõ là nuôi ong tay áo. Lại còn dan díu với nhau, sinh con đẻ cái sau lưng Thị thế này. Mắt Thị
long lên, hoang dại, đầy những tia sáng man quái! Xưa Thị khinh bỉ Phi bao nhiêu, thì giờ lại càng thêm căm ghét gã bấy nhiêu. Thị phải hành hạ
tình nhân của gã!

– Lôi con chó này xê ra, không bẩn váy bà! – Giọng Thị xoe xoé.

Nghe mệnh lệnh của Thị, Y nuốt nước bọt, rời người đẹp loã lồ, tiến lại Phi và nắm tóc gã kéo lê cả người Phi trên sàn nhà như kéo một bao tải
rách.

Thật là nhục nhã! Phi nhão ra, hoàn toàn chẳng còn một chút sinh lực nào. Gã dập đầu xuống sàn nhà, đau đớn mà không thể khóc được. Đúng lúc Phi
như chẳng còn sức mạnh nào nữa trong người gã, thì gã ngước lên nhìn về phía Quyên. Và, bắt gặp ánh mắt ngập đầy đau đớn của cô.

Cuộc sống thật không mấy ai biết hết được chữ ngờ. Cái nhìn của con người vốn thường ngày mong manh như tơ, nhưng giờ đây trong sự bẽ bàng, đau khổ
tới khôn cùng, ở một hoàn cảnh hi hữu đặc biệt bỗng trở nên một phép màu kì diệu, có thể biến đổi hoàn toàn con người Phi, để gã lập tức trở thành
một con người khác.

Phi đứng dậy.

Ngay khi đó, gã trông thấy cái chuôi dao đen bóng của Quyên. Con dao trắng mà ngày đầu tiên Quyên tới, gã đưa cho, Quyên thường nhét dưới gối để tự
vệ.

Người ta, vào thế cùng, đúng như con chó bị dồn vào chân rào. Phi như con chó cùng bứt rậu, gã nhao lên, nắm phắt lấy con dao bếp dài hai gang tay,
sắc lẹm.

Phi vung dao lên.

Nhát chém khá chính xác, phập nhanh như tia chớp vào vai Y, kẻ đã hành hạ người yêu gã, kẻ đã làm đau đớn Quyên, kẻ đã giơ bàn tay bẩn thỉu sờ nắn,
bóp nặn trơ tráo, hèn hạ bầu vú tuyệt đẹp trắng ngần của em!

Nhát chém mang sức nặng bấy nay của lòng căm thù bị dồn nén, giờ cộng với sức mạnh mới, trở nên có lực khủng khiếp, phập xuống vai Y. Lưỡi dao
mỏng, sắc lẹm làm đứt lìa áo da, qua tất cả len dạ bên trong, ngập sâu vào thịt da, lút mắc tận xương bả vai tình địch.

Tay lực điền có cái cổ đen trũi, đang ở thế thượng phong, chưa bao giờ nghĩ rằng, gã có ngày lại rơi vào tình huống bất ngờ, trong tích tắc ấy. Y
rú lên đau đớn. Phi trợn mắt, nhổ phắt lưỡi dao, lại vung lên một lần nữa. Cái kẻ trước đây đầy sức mạnh là Y kia, bấy nay vẫn cho rằng, có thể di
Phi dưới gót giày như một con dòi, bỗng nhiên hoảng sợ, bay hết cả hồn phách. Y ôm vai đầy máu bỏ mặc Thị, chạy tháo lấy thân, gã thục mạng xuống
cầu thang.

Phi quay lại.

Giờ đây, gã là một kẻ chẳng còn tri giác. Trong óc gã, chỉ còn lại mối hờn căm ngùn ngụt, âm ỉ chất chứa bấy nay. Mối căm hờn xưa, thường chỉ dám
tự bóp vỡ bàn tay mình, chưa khi nào được biến thành hành động, giờ như ngọn lửa ngút cao, phùn phụt cháy ngun ra từ trong con người gã. Gã câm
lặng, lì lợm tiến lại gần Thị rồi vung dao lên.

Thị thật hoàn toàn bất ngờ khi sự thể chớp mắt lại đảo nhanh như vậy. Mụ không thể nào ngờ, cái thằng hèn ấy, trong giây lát bỗng lại có thể trở
lên liều lĩnh, hung bạo tới thế.

Thị há hốc mồm nhìn trân trân đôi mắt ráo hoảnh của Phi, thấy rất rõ nhất là lưỡi dao trắng lạnh. Mắt Thị không kịp chớp. Cảnh tượng giữa Thị và
Phi bây giờ, hệt như con ếch bị thôi miên nhìn con rắn nuốt mình một cách thản nhiên, không một phản ứng. Thị là con ếch giương mắt không chớp, chờ
lưỡi dao hạ xuống.

– Đừng! Đừng anh! Anh Phi!… Đừng anh. Em van… – Khi đó Quyên chợt kêu lên. Tiếng kêu chìm trong tiếng nấc nghẹn ngào của chính cô, một con dao
người đang bẽ bàng, vô vàn nhục nhã và đau đớn. Tiếng kêu đứt quang ấy ngay lập tức vọng tới tai Phi.

Tiếng kêu của Quyên, người Phi thương yêu vô vàn bấy giờ lại giống như một cú bấm nút. Sự nhấn nút cắt điện một cỗ máy đang gầm gào, làm Phi lập
tức chùng mình và dừng tay, quay đầu về phía Quyên.

Đó là một thời cơ để Thị thoát thân. Thị chớp cơ hội ấy, định đẩy Phi ra và chạy thoát về phía cầu thang. Thị lao tới. Vừa khi đó, Phi quay lại. Cả
cái xác thân đã chớm đẫy lên, chẳng còn thon thả nữa của Thị lao vào chính lưỡi dao nhọn hoắt mà Phi đang cầm chắc trong tay. Thị lao trúng vào mũi
dao. Thị hệt như quả dưa bở bị ném thẳng vào mũi mác đang chờ sẵn. Thân hình ngập lút trong lưỡi dao trắng dài tới bốn mươi centimet.

Trúng dao, người đàn bà sững lại. Thân hình Thị như hoá đá trong tích tắc. Mồm há, rồi từ từ ngửa đầu ra sau, mắt trợn ngược nhìn lên trần nhà. Cái
thân xác nhẽo nhợt của người đàn bà bất hạnh ngả nghiêng ra từ từ, rồi đổ quỵ xuống sàn nhà, không một tiếng động.

Tất cả sự việc diễn ra chỉ vài tích tắc. Đôi môi nhẫy son thắm, có dòng máu nhễu ra từ mép, tong tong rỏ xuống. Máu cũng từ nơi con dao thọc qua,
máu từ nơi mũi dao lòi ở phía sau lưng phụt ra đỏ thẫm. Máu chảy xuống sàn nhà, loang dần, loang dần, lênh láng, nhức mắt.

Quyên sững sờ nhìn thấy rõ tất cả. Đôi mắt đẹp tuyệt vời với làn mi dài đen thẫm, bỗng có trăm ngàn con đom đóm loạn xạ bay lên…

Kumar Kumar đứng lặng im, bàng hoàng trước cái giường nệm trống.

Chẳng còn Quyên nằm tại đó. Thanh Vân còn ở bệnh viện không? Anh nghĩ.

Kumar nhao tới phòng trẻ sơ sinh. Cái giường trẻ sơ sinh trắng muốt, nhỏ bé chỉ còn lại chiếc gối nhỏ. Không còn Thanh Vân nữa! Kumar cúi xuống.
Anh như để mất hồn, bần thần sờ tay xuống tấm drap, nơi bé Thanh Vân nằm. Ừ, buổi chiều hôm qua, nó còn nằm đây, bàn tay nhỏ xíu hồng hào, cổ tay
bụ bẫm, những búp tay cụng cựa, ngo ngoe. Mùi thơm quen thuộc quá! Mùi sữa hoi hoi, vơ vẩn còn sót lại đâu đó, thoang thoảng làm Kumar thốt nhiên
buồn nao.

Không bác sỹ và hộ lý nào biết bà mẹ trẻ người Việt kia bế đứa con bỏ trốn đi đâu? Kumar cũng không thể lý giải, vì sao cô ấy lại bỏ đi? Anh quá
bất ngờ và không lường trước được tình huống này. Cô ấy đi đâu? Cô ấy là người lớn, dù ngoài trời giá rét băng tuyết, bỏ đi cũng không sao, còn đứa
trẻ? Nó bé xíu như con thỏ non thế kia. Mùa đông về rồi! Ngoài trời có hôm lạnh dưới âm năm, mười độ. Có đêm âm mười hai độ. Một đứa trẻ nhỏ, thơ
bấy, yếu ớt hơn cả mầm cây mới nhú, sao có thể chịu được gió lạnh qua bốn năm giờ, trong đêm đông giá rét thế này? Anh buồn bã rời bệnh viện. Chiếc
xe mô – tô thùng, có dòng chữ da cam”Pizza tươi”, mấy lần nổ máy, rồi lại tắt máy. Anh chần chừ, nửa muốn đi, nửa lại chẳng biết đi đâu. Anh đứng
yên tới nửa giờ trước cổng viện. Hai bàn tay đặt lên cần lái, cứ để mặc gió lạnh lùa vào cổ áo, mắt đăm đăm nhìn vào bóng đêm thăm thẳm.

Thuở nhỏ, Kumar được giáo dục rằng, đã là người đàn ông Sri Lanka, không bao giờ được bỏ cuộc, phải như con hổ đuổi theo con nai trong rừng, như
con rắn hổ mang săn con cầy trên cây, như con sấu kiên nhẫn dìm mình trong nước đầy đất đục, hở đôi mắt thao láo nín chờ con hoãng qua sông và bất
chợt chớp đúng thời cơ nhao lên dìm chết con mồi trong khúc sông sâu ngầu bọt. Cũng thời thơ ấu, Kumar cùng theo cha suốt mười ba ngày nằm phục,
leo qua ba quả núi, chín con suối, theo dấu con hổ dài hơn hai mét, bắn hạ nó, rửa hờn cho đoàn cừu của gia đình bị hổ xé thây bảy con trên sườn
núi Tisikora.

Phải đi tìm cô ấy. Bằng được!

Kumar chạy lòng vòng qua mấy phố, rồi đến trại tị nạn. Không thấy Quyên! Anh lại lái xe khỏi trại, chạy một vòng nữa khắp thành phố trong đêm lạnh
cố tìm Quyên.

Đêm ấy, tới quá nửa đêm, tuyết lại lững thững, chầm chậm rơi. Những đám tuyết tung tóe bay, tựa như lão trời già đang ở tít trên cao tung chăn giũ
nệm, để bông xốp đầy trời. Tuyết nhẹ như tơ, bông lớn, bông nhỏ đụng vào cửa kính xe tan ngay thành những vệt nước nhòe nhoẹt.

Quyên và đứa trẻ bỏng, yếu ớt lắm! Giờ này em ở đâu, hay em đã tan ra, biến mất như bông tuyết trên mặt kính kia?

Cả tuần liền sau đó, sớm nào Kumar cũng đi tìm mẹ con Quyên. Anh hỏi thăm tất cả các cảnh sát gặp được. Anh hỏi thăm tất cả những khách hàng quen
thuộc ở thành phố. Không có một ai trông thấy một người đàn bà Việt Nam nhỏ bé, trên tay có một đứa trẻ sơ sinh đi trong đêm ấy! Mấy lần anh mừng
rỡ đuổi theo sau lưng một phụ nữ nhỏ bé tóc đen nhanh nhánh. Anh vượt lên, rồi thất vọng ngỡ ngàng khi nhận ra đó không phải Quyên. Trở về, anh bải
hoải, thẫn thờ, buồn hơn và lập tức có cảm giác như đánh mất cái gì. Sau hôm ấy, Kumar lại ngồi bên bức tượng Phật và thầm cầu nguyện. Ngay cả
trong mơ, anh cũng thấy đứa trẻ và khuôn mặt Quyên hiện lên. Anh đâu có tình yêu với Quyên. Chỉ đơn giản là thương mẹ con cô ấy. Nhưng anh yêu đứa
bé, thuộc cả tiếng khóc của bé hơn hai tháng nay. Tình cảm ấy, ai từng trải, tinh đời sẽ nhận thấy khi quan sát đôi mắt của anh, quan sát những lúc
em bế nó trên tay, nhè nhẹ hát tiếng mẹ đẻ một điệu hát mà lời ca vu vơ, như từ đâu sâu thẳm trong tiềm thức ùa ra:

Anh đừng nghĩ là anh đã chiếm được nơi này. Hãy lên ngựa phi nước đại nghe gió thổi bên tai. Có thấy không, bình nguyên, những dải rừng trải rộng
chân trời…

Những đám mây vẫn tự do bay trên đầu và mặt trời lẫn trăng sao còn đó…

Thấy không, mùi cỏ thơm theo gió từ những cánh đồng thổi lại…

Con hổ ở trong rừng. Con nai ở bên suối và những con ong nhởn nhơ trên khắp mặt đất. Không phải của anh…

Suốt hai ba tháng liền sống trong tình trạng như thế, Kumar vẫn không thể nào dứt bỏ được hình ảnh về Quyên và nhất là đứa trẻ mà anh gắn bó, yêu
thương, như nó là con của anh vậy.

Hãy thông cảm cho Kumar. Ở thành phố hẻo lánh này, không có một ai là đồng bào của anh. Không có bạn thân để chia sẻ. Người thầy dạy tiếng Việt già
cùng trại tị nạn, người bạn có thể tâm tình, sau bốn năm làm thuê cho một quầy bán quần áo ngoài trời. Do không chịu được giá lạnh và không có kinh
nghiệm chống lạnh, đã suy thận cấp tính và mất cách đây không lâu. Những khi buồn, anh chỉ biết tha thẩn trên các đường mòn quanh nơi anh sống và,
đôi khi anh trở nên lẩn thẩn, hành động như hồi còn bé xíu, ra trước hiên nhà nói chuyện với một cái cây.

Có một lần, trong đêm, anh mơ thấy Quyên và con cô. Trong giấc mơ anh thấy Quyên ôm con chạy trên một cánh đồng đầy rắn độc. Trước mặt anh, khi đó,
khốn nạn thay, lại có một cái vực rất sâu ngăn cản, làm anh không thể nào qua được để tới bên mẹ con Quyên. Anh thét lên. “Quyên, quay lại đây!”Anh
nhìn rõ những con rắn trườn tới, vươn cổ lên như muốn mổ vào đôi chân hồng hồng, bụ bẫm của đứa trẻ. Anh thấy bầy rắn nhung nhúc thi nhau quấn chầm
chậm vào chân Quyên, rồi quấn chặt cả thân hình kiều diễm của cô. Kumar thét lên: “Quyên!” Tiếng thét làm anh sực tỉnh.Kumar ngồi dậy. Quanh anh,
bóng tối dày đặc và không gian cực kỳ im ắng. Mồ hôi anh chảy ra đầm đìa ướt đẫm tóc và trên ngực đầy những giọt mồ hôi tròn vón lại. Anh lấy giấy
lau mồ hôi. Không ngủ được, Kumar bước tới cửa sổ.

Đường phố, hai bên là những dãy nhà cao tầng, đứng sin sít, phố như một cái ống, để hút những cơn gió hu hú thổi. Tiếng gió đập vào cửa kính, lọt
qua cửa sổ hé mở nghe rõ mồn một. Gió cuốn theo cơ man nào tuyết trắng. Những cơn gió tuyết miênn man biến cả dãy phố thành dòng sông trắng toát,
mù mịt, cuồn cuộn trôi, miên man chảy, làm anh rùng mình. Trong con gió trắng tinh ào ào bay dọc phố ấy, hình ảnh Quyên và con cô cứ chập chờn ẩn
hiện.

Kumar quay lại giường nhắm mắt lại. Đã hai giờ đêm mà anh không sao ngủ được tiếp. Anh trằn trọc tới sáng..

Sau đêm mơ ấy, Kumar luôn trong tâm trạng bất an. Buổi trưa đưa bánh Pizza giữa trời băng tuyết, lạnh đến âm bảy tám độ, mà anh cứ thấy lòng dạ bồn
chồn, chẳng yên như có lửa đốt. Buổi chiều, mấy lần, anh nhầm lẫn khi trả lại tiền thừa cho khách hàng. Anh có linh cảm Quyên và đứa trẻ đang ở đâu
đó rất gần. Lại tưởng tượng, cảm thấy, hình như Quyên và con cô sắp gặp sự gì chẳng lành ở nơi nào đó.

Phần 9

Tối tối đi làm về, dẫu khuya thế nào anh vẫn dành thời gian để ngồi bên tượng Phật. Đêm nay, anh ngồi lâu hơn mọi tối. Nhắm mắt lại, Kumar tập
trung tâm trí, giữ lặng một niệm, cầu Phật Bà ra tay cứu độ.

Trong thâm tâm anh, sự mong ước ấy, như ngọn lửa luôn cháy, trong cả ý thức và vô thức. Dường như nó thuộc về bản năng của anh, một con người luôn
hy vọng và tin tưởng điều tốt lành sẽ tới cho người khác. Cái niềm khao khát âm ỉ trong anh dành cho mẹ con Quyên, ở những ngày ấy, khi hoàn cảnh
hai bên không có một người thân, hình như xuất phát từ một góc thăm thẳm, không chỉ dành riêng cho ai. đã gìn giữ cất dấu lâu lắm trong tâm hồn,
nay chỉ là điều mơ ước cụ thể hơn mà thôi. Kumar tâm niệm rằng, những mục tiêu người ta đạt được trong cuộc sống vốn chỉ là tương đối. Tất cả những
gì mà nỗ lực cá nhân nhằm đạt tới đều là điều bình thường. Nó chỉ giúp người ta tồn tại. Ở nó, người ta không thể tìm thấy hạnh phúc bền vững, dài
lâu, bởi thế giới luôn bất an, do chiến tranh bất kỳ, do biết bao thiên tai, dịch bệnh! Theo anh, hạnh phúc thực sự của mỗi kẻ tha hương như anh,
chỉ có thể là trạng thái lâu dài, bền vững, khi biết nhận ra, tìm thấy ở trong chính niềm vui, sự may mắn của người khác, của đồng loại. Đó là
nguồn vui vô bờ Kumar đã cảm thấy, đã tìm thấy ngày Quyên hồi sinh, tỉnh dậy. Thế mà, không hiểu sao cô ấy bỗng dưng mất tích? Cô ấy mang theo cả
một đứa trẻ có bàn tay xinh xẻo, bụ bẫm, có đôi mắt đen trong veo và nụ cười làm anh tan hết mệt mỏi sau mỗi ngày làm việc căng thẳng triền miên.

Buổi tối hôm sau, Kumar đi đưa bánh muộn hơn mọi khi. Chuẩn bị ra về, lại có khách hàng gọi điện tới đặt năm ổ bánh nóng và đồ uống. Giao bánh
xong, Kumar gọi điện thoại, báo cho chủ tiệm bánh rằng, anh về nhà luôn, không quay lại tiệm bánh nữa. Chẳng là cuối tháng trước, anh đã thuê được
một căn hộ hai phòng, trên tầng hai chung cư. Nam thành phố, cách trại cũng chỉ vài cây số. Đêm đêm dù về muộn, anh vẫn tranh thủ thu dọn, sơn, dán
lại giấy tường nhà, tường bếp và sắp xếp cho căn hộ trở nên gọn gàng, sạch sẽ, ấm áp hơn, không tuềnh toàng như phòng anh khi ở trại. Đêm nay, anh
muốn vẽ nốt bức tranh tường trong phòng khách. Kumar vẽ không tồi. Những mảnh xanh biểu tả rừng. Dăm con nai đang gặm cỏ và một con hổ. Anh bắt
chước các hình ảnh, những con vật từ những bức tranh hay phù điêu ở các đền miếu quê anh. Những hình ảnh ăn sâu vào tâm trí từ khi còn là trẻ thơ,
nay được Kumar nhớ lại, vẽ ra trên bức tường lớn nhất của phòng khách. Anh muốn, ai vào căn hộ anh, cũng nhận ra, đó là cánh rừng quê hương anh.
Gian phòng này của một ngừi Sri Lanka. Những màu sắc nguyên, tương phản, xanh, đen, đỏ và vàng phân định trên bức tranh nói hộ anh điều ấy.

Trước đây một tháng, ông chủ hiệu bánh đã sắm cho anh một chiếc xe VW Gold đã cũ. Có ô-tô, Kumar không phải chịu đựng cái buốt hắt thẳng vào mặt
trong nhiều đêm đưa bánh. Nó ngấm vào thân thể làm anh đau đớn mỗi khi trở trời.

Đêm nay, nhiệt độ ngoài trời xuống âm mười lăm độ. Mọi vật co quắt lại. Lạnh tới độ, khi cần gạt nước không bật vài tích tắc, đã lập tức xuất hiện
trên mặt kính sau, trước ô tô một lớp băng mỏng. Dầu là ngồi trong xe, anh luôn bật hết cỡ chiếc quạt hơi sưởi thổi khí nóng dẫn lên từ động cơ.

Đường phố về khuya hệt như một thành phố chết. Các cửa hàng cà-phê, tiệm ăn, quán Bier đã đóng cửa từ lâu. Không có một âm thanh, quang cảnh thành
phố im lìm như tranh vẽ! Đèn chiếu sáng công cộng hắt xuống mặt đường những quầng sáng tròn lành lạnh. Ánh sáng của các loại biển hiệu quảng cáo,
màu vàng hay da cam hắt ra trên hè phố, trước các cửa hàng, nom cũng nhợt lạnh, ung ủng làm sao.

Kumar chạy ô-tô qua tiệm ăn nhanh Asia Anh thoáng ngạc nhiên: “Muộn thế này, quá giờ đóng cửa lâu rồi, sao tiệm vẫn sáng đèn” Kumar bỗng nhìn thấy
bóng ai đó từ tiệm ăn vội bước gia, đi như chạy dọc phố.

Dưới những hàng cây lê đã trút hết lá, toàn cành khẳng khiu, trơ khấc, chua chúa vươn hằn trên vòm trời đêm đầy ánh sao, anh nhìn thoáng thấy bóng
một người phụ nữ thui thủi đi trong đêm đông dưới hàng cây, nom nhỏ bé, hiu quạnh.

Xe giảm ga. Tới gần hơn, anh nhận ra dáng một người phụ nữ nhỏ nhắn. Anh giật mình, nhíu mày: “Hay là cô ấy?” Cái bóng chợt vấp chân, ngã xấp xuống
mặt đất. ANh nhấn ga lướt tới. Kumar mở to mắt trong đêm tối. Người anh tìm kiếm mấy tháng nay, như một giấc mơ hiện ra kia chăng? Anh vội dừng xe,
mở cửa, nhảy ngay xuống vỉa hè. “Quyên! Quyên chăng” Anh bừng lên hy vọng.

Kumar quả là có con mắt tinh như cú trong rừng đêm.

Người đàn bà nhỏ bé ấy chính là Quyên. Cô soài ngã, nằm trên mặt đất lạnh ngắt, thở hổn hển. Đôi tay Quyên vẫn ôm ghì lấy đứa con và đứa trẻ chắc
cũng bị đau, chợt khóc ré lên.

– Quyên! Có phải Quyên? – Kumar run run, tiến nhanh lại, khe khẽ gọi.

Thực ra, bấy nay Quyên đã quên sự ám ảnh, làm cô hoảng sợ mà chạy chốn khỏi bệnh viện, của tay da đen. Nghe tiếng người gọi, cô quay sang ngước mắt
lên và nhận ngay ra gã da đen hôm nào. Quyên giật thót người. Sao đêm nay cô lại không may tới vậy! Quyên thoáng nghĩ. Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa!
Vừa thoát khỏi quán an nhanh, nơi xảy ra án mạng. Quyên lại gặp ngay kẻ đã làm cô sợ hãi mấy tháng trước. Vẫn bộ mặt đen như than lẫn vào bóng đêm
và hàm răng trắng ởn, đôi mắt nhấp nháy đen và trắng như ma hiện hình. Nhưng Quyên chẳng còn hơi sức nào mà chạy tiếp nữa. Mọi việc xảy ra ở nhà
Phi và quãng đường hơn trăm mét bế con đi như chạy làm cô không còn hơi sức đâu mà bỏ chạy.

Quyên ngồi dậy. Cô nựng đứa con trong tay. Cô tự nhủ, hãy bình tĩnh lại và cố giữ vẻ mặt bình thản, làm như không để ý tới sự có mặt của gã da đen.
Đứa trẻ vẫn khóc vóng lên. Tiếng khóc vỡ ra, tan vào giữa phố đêm thanh vắng, nghe như cấu vào lòng người lớn. Kumar bước lại sát bên Quyên. Anh
muốn bế lấy đứa trẻ, đỡ cho Quyên. Nhưng Quyên không muốn, cô không muốn buông tay rời con. Không thể trao con cho gã! Quyên nghĩ. Cô hơi nhíu mày
và siết thêm đôi tay, như sợ gã da đen cướp cạn đứa con trên tay cô. Cái siết hơi quá tay ấy làm đứa trẻ phản ứng, giãy giụa và khóc to hơn.

– Yên nào, yên nào! Là lá la …lá la…! – Kumar chợt đưa bàn tay vỗ nhẹ vào tấm chăn bọc đứa bé. Anh cúi xuống, nhè nhẹ hát lên bài ru ca quen
thuộc ngày nào. Bàn tay anh nhờ nhờ đen, nhưng lòng bàn tay trắng, những ngón tay ấm sờ nhẹ vào má đứa trẻ còn nguyên dăm giọt nước mắt.

Kỳ lạ thay! Cái giọng dịu dàng, âm âm, âm ấm của gã da đen vừa cất lên, lại làm cho đứa trẻ nín ngay. Nó giương to đôi mắt nhìn Kumar. Hình như nó
còn nhận ra hơi thở của người quen. Đứa trẻ trên đôi má bầu bĩnh còn long lanh giọt lệ, vừa khóc đây thôi, chợt hé nụ cười.

Sự kỳ lạ này, có thể tương tự, tựa như trường hợp con người ta trong trạng thái nửa tỉnh, nửa mê, bỗng tỉnh giấc khi nhận ra, dầu mơ hồ, từ thăm
thẳm ký ức ùa về, giọng của một người ruột thịt thân yêu, hay của một người bạn tin cậy.

Đứa trẻ ngưng khóc! Liệu phải chăng, nó đã nhận ra cái hơi quen thuộc xưa của người đã biết bao ngày nâng niu nó, bế ẵm, ve vuốt, hôn hít cái má
bầu thơm nức của nó? Có phải chăng, nó cũng nhận ra giọng người quen, trong ba bốn tháng, từ khi nó lọt lòng, đã ở bên nó, vui chơi với nó cười và
đăm đăm nhìn Kumar hát. Điều ấy là sự thật, đã xảy ra nhiều đêm, nhiều ngày, cả những khi nó thức hay khi đã chìm vào giấc ngủ tự nhiên, trong lời
ru ca của Kumar…

Quyên hết sức ngạc nhiên khi đứa con cô không không khóc nữa. Cô nhìn thấy con cô giương to đôi mắt đen láy nhìn Kumar trong đêm tối. Cô ngước lên,
thoáng nhìn Kumar và bỗng nhiên bớt nỗi sợ hãi vài giây trước đó, lúc Kumar xuất hiện.

Người ta, trong trường hợp của Quyên, nhu cầu tồn tạii ở bản năng mạnh mẽ và chính điều ấy thường chỉ ra ngay một lối thoát; khi người ta ở thế
cùng để chọn đúng con đường ít nguy hiểm hơn cả. Cô vừa chạy trốn khỏi nơi xảy ra án mạng. Giờ gặp Kumar bất ngờ như vậy, thực ra cô vẫn sợ. Nhưng
có lẽ, nỗi sợ hãi do vụ án mạng nơi Phi gây ra lớn hơn. Rồi việc đứa trẻ nín bặt khi nghe thấy giọng nói của Kumar, phần nào đã chấn an cô. Linh
cảm mách bảo cô điều gì đó về sự an lành của con. Có thể vì thế, lúc Kumar nâng cô dậy, Quyên không một phản ứng, ngoan ngoãn đứng lên.

– Em đi đâu đêm hôm thế này? – Kumar đỡ đứa trẻ và hỏi.

Quyên không trả lời. Cô quay lại nhìn về tiệm ăn. Trong cô, dăm tích tắc thôi, lóe lên ý định: “Phải nhanh chóng rời khỏi nơi đây!”. Thế là cô chủ
động kéo tay Kumar:

– Nhanh lên! Hãy cho tôi rời khỏi nơi này, càng nhanh càng tốt!

Kumar hành động như một cái máy. Anh vội vàng mở cửa xe. Vội vàng kéo tay Quyên đưa lên xe và, vội vàng nổ máy, đấm số. Chiếc ô tô nhỏ của anh êm
êm trườn trên đường, phóng vút đi, để lại làn phố một làn khói mỏng lơ lửng trên mặt đường đen nhanh nhánh. Đèn pha ô-tô chiếu loang loáng, hắt ánh
lên muôn vàn tia sáng rọi ngược lại, như ai trong đêm tối đã rắc đầy vụn thủy tinh trên mặt đường khi hơi sương tuyết vẫn đang loang chảy ướt đẫm
phố đêm.

Không đầy nửa giờ sau Quyên đã ngồi trong căn hộ của Kumar . Trước đó, trên đường về căn hộ, cả Kumar và Quyên đều chông thấy hai chiếc xe cảnh sát
và một xe cứu thương không rú còi. Chúng bật đèn xanh, vàng, đỏ nhoe nhóe, nhấp nhánh, chạy như cơn lốc cuốn, ào về hướng tiệm ăn của Phi. Lúc lướt
qua dãy xe cảnh sát và cứu thương chạy ngược, Quyên giơ tay ôm chặt lấy ngực. Cô tưởng trái tim cô muốn vỡ tung ra.

Chỉ tới tận khi vào trong căn hộ của Kumar, khi đứa con đã được Kumar vỗ về và đặt trên tấm nệm trắng tinh, thơm phức của anh. Quyên mới bình tĩnh
chút ít và chợt nhớn tới việc vừa xảy ra và lo lắng cho Phi.

Không biết cô bỏ chạy như vậy có đúng không. Bỏ một mình Phi ở lại; người đã đùm bọc mẹ con cô bao nhiêu ngày nay, cứu cô khỏi giây phút ê chề nhục
nhã; người đã cắt dây trói và nâng cô đứng dậy, giục cô chạy chốn, liệu cô có bất nhẫn quá không? Ngồi một mình trong phòng, khi Kumar nấu vội mì
cho bữa ăn muộn, Quyên cứ thấy trong đầu cô hiện lên khuôn mặt dài dại, tán xám của Phi và cả vũng máu sậm đỏ, lênh loang tràn ra trên mặt sàn.
Quyên bỗng ôm mặt.

– Ăn đi cho nóng em! Thôi đừng lo lắng buồn gì nữa. Có chuyện gì đã xảy ra vậy? Hãy nói cho tôi nghe! – Kumar đặt bát mì lên bàn và đưa cho cô
thìa, dĩa nói tiếp:

– Em hãy bình tĩnh lại. Ăn đi đã, rồi kể cho anh nghe chuyện gì đã xảy ra!

Cũng phải vài giây sau đó Quyên mới bình tĩnh lại, đôi vai cô không còn run lên từng chặp nữa.

Cô quay sang nhìn Kumar.

Đôi mắt của gã rất hiền. Cái miệng rõ tươi. Dưới ánh đèn, giờ đây nước da Kumar sáng ra, chứ không đen sì như trong đêm tối. Không hiểu sao, ngày
xưa mình lại sợ gã vậy? Cô tự hỏi mình.

Quả thực, xét về các nét trên khuôn mặt Kumar, nếu loại bỏ nước da đen, thì anh rõ ràng nom vừa rất đàn ông lại vừa thanh thoát, chẳng khác một
người Việt. Tóc Kumar đen. Khuôn mặt trái xoan, cái cằm chẻ. Đôi mắt đen, lông mày cũng như tô than, màu mắt, con ngươi giống như mắt người Việt.
Mũi anh cao và thẳng chứ không tèn tẹt như đa số con trai Việt, lại cũng không cao ngồng, nhọn hoăn hoắt, hay khoằm khoằm như mũi bọn Tây. Đôi môi
hình trái tim có sắc hồng chứ không có những tia máu như cô tưởng tượng.

Con người ta như vậy đấy. Cũng là Kumar thôi, khi trước, lúc cô vừa thoát khỏi cái chết, với sự ám ảnh của những bất hạnh khi vượt biên, hoặc sau
những chuyến bẽ bàng chua cay, khi gặp người chồng bạc bẽo và tàn nhẫn, cảm giác về Kumar thật khác với cảm giác đối diện trước Kumar bây giờ. Giờ
đây, sau sự hốt hoảng khi chạy trốn khỏi tiệm ăn, trong nỗi sợ hãi bị trả thù, nếu Y quay lại – như Phi nói – và cả nỗi lo sợ khi cô rơi vào tay
cảnh sát, cô bỗng thấy Kumar không đáng sợ như xưa nữa.

Quyên để nguyên bát mì không đụng tới. Cô không thấy đói. Còn bụng dạ nào để ăn trong hoàn cảnh này. Quyên không nên giấu Kumar làm gì! Nghĩ vậy,
cô cắn môi, suy nghĩ một lát rồi thong thả, bình tĩnh kể cho Kumar nghe mọi chuyện đã xảy ra với cô.

Kumar im lặng ngồi nhìn Quyên không chớp, lắng tai nghe không sót một từ trong câu chuyện Quyên kể.

Mọi câu hỏi của Kumar bấy nay lần lượt được giải đáp.

Tất nhiên cô không nói về nỗi sợ hãi và những cảm giác của cô khi lần đầu gặp Kumar, tưởng tượng anh hung dữ ra sao trong mơ. Cô nói, lý do bỏ
viện, vì cô sợ gặp ngườichồng cũ. Cô kể cho anh nghe về Phi, những tháng sống ở đó ra sao và không hề che giấu được việc cô không kiềm chế được,
đáp lại tấm lòng của Phi, như sự trả ơn cho Phi như thế nào?

Kumar đã sống ở Đức quá lâu, lại ở trại với người Việt cũng quá lâu, nên anh hoàn toàn hiểu được tình cảnh của Quyên. Người ta mà phụ nữ Việt Nam
vốn duy tình lắm. Sự thiên về duy cảm của họ, trong cách nghĩ và nếp sống, luôn luôn có hai mặt. Ở trong những hoàn cảnh cùng quẫy hay đặc biệt,
trái tim họ run rảy, mong manh, dễ vỡ và rất dễ lại rơi vào những cạm bẫy hay cảnh ngộ chớ trêu, để bước chân lầm lỡ…

– Khi bà ta nhao tới, chắc định đẩy anh ta ra để chạy trốn, đã lao chúng con dao Phi cầm trong tay. Bà ấy ngã vật xuống. Tôi thấy anh Phi sững sờ
vài giây rồi quăng con dao đầy máu xuống và ôm lấy đầu. Con tôi lại khóc. Anh ấy đứng dậy, tới bên tôi. Anh cắt dây trói cho tôi. Tôi thực hoảng sợ
vô cùng vì lần đầu tiên chứng kiến cảnh tượng kinh khủng như thế. Nhìn thấy vũng máu lớn, tôi hoa mắt, choáng váng gần như ngã khuỵa. Nhưng tôi
khẳng định, như tôi đã nhìn thấy rõ. Phi là người vô tình, chứ không cố sát. Cái bà ấy tự lao vào dao. Bà ấy tự lao vào dao. – Quyên buồn bã nhắc
đi nhắc lại, kể với Kumar như nói với một quan tòa. – Tôi không thể nào làm gì hơn ôm chặt lấy con tôi mà khóc. Phi cứ đi đi lại lại trong phòng và
như chợt tỉnh ra, anh ấy lấy một cái drap trắng trong tủ của tôi phủ lên người chết. Rồi anh ấy đẩy tôi đi xuống thang gác, bảo tôi bế lấy con chạy
đi. Thực ra tôi chẳng biết chạy đi đâu cả. Nhưng anh ta bảo, thằng Y có thể quay trở lại bất ngờ và giết tất cả. Tôi vô cùng hoảng sợ. Thế là tôi
vơ vội mấy thứ cần thiết và bỏ chạy khỏi nơi đó. Tôi biết chạy đi đâu đây. Nhưng tôi sợ. Sợ lắm!

Quyên ngừng nói. Cô ôm lấy ngực, thở gấp, y như sự kiện mới xảy ra vài giây thôi.

Kumar im lặng. Anh nhìn Quyên không chớp. Rõ ràng cô ta đã rơi vào một trường hợp thật khó mà tìm ra sự xử lý sáng suốt hơn.

Quyên lại cất tiếng, buồn bã nói:

– Tôi thật chẳng ra gì, bỏ lại người đã cưu mang tôi bấy nay.

Kể xong câu chuyện, Quyên như kẻ đã trút hết một gánh nặng. Bấy giờ cô mới thấm mệt. Như người bị rút hết cả sinh khí, thân xác cô bỗng mềm oặt và
gục đầu, như cái lá héo, rũ xuống, đôi mắt cô giờ đây không có nổi một giọt nước mắt, khô nhưng vẫn thăm thẳm, buồn đau đớn.

Kumar rời ghế, đứng dậy tới bên Quyên. Người đàn ông khác chủng tộc đặt một bàn tay lên vai cô. Bàn tay anh ấm và nặng.”Có lẽ mình chẳng nên nói gì
thì hơn. Cô ta đang hoảng loạn”. Anh nghĩ vậy, và rời Quyên, xuống ngay tủ bếp, lấy một cốc nước mang lại cho Quyên.

– Bình tĩnh lại chút nào! – Giọng Kumar ấm và ân cần.

Ngoài phố vọng vào tiếng xe chạy gấp, có tiếng phanh rin rít trên đường cua gấp. Hình như có cả tiếng còi hú.

– Em ạ. Mọi việc để ngày mai. Em phải ra trình cảnh sát. Em là nhân chứng thứ hai, rất quan trọng, sau tên bị chém kia. Cảnh sát Đức sẽ tìm ra ngay
anh ta. Có phải như thế thì mới cứu được Phi. – Kumar bình tĩnh nói. – Em không có tội! Nếu là anh, khi đó, có lẽ cũng không đủ tỉnh táo và sức
mạnh để ở lại và hành động hợp lý hơn. Phi sẽ hiểu…

Họ ngồi yên lặng với nhau hơn nửa giờ. “Khuya rồi. Lạnh đấy. Em ngủ đi!” Kumar để Quyên lại trong phòng đặt đứa trẻ. Anh ra phòng khách và ngả mình
trên đệm đi- văng. Không hiểu sao khi đó anh lại nhớ tới câu chuyện cổ tích của tuổi thơ kể về nàng Sitamona.

Thuở ấy, trong cuộc nội chiến tranh giành ảnh hưởng giữa các vùng đất, thủ lĩnh bộ tộc Sinnatuerrai, chồng của nàng Sitamona bị giết. Bộ tộc
Sinnatuerrai mất chủ tướng, bị kẻ thù đánh cho tan tác. Sitamnona chạy trong đám loạn quân, mang theo đứa con của dòng giống Sinnatuerrai rồi lạc
trong một khu rừng. Hai ba ngày trôi đi giữa rừng rậm Anura, nàng đói lả và kiệt sức, không có một giọt sữa cho con bú. Trong cơn tuyệt vọng, nàng
nghĩ đến sự bất tử của Đức Phật, nàng quỳ xuống xin Đức Phật. Lời cầu vừa dứt, bên khe suối trước mắt bỗng suất hiện một con hổ trắng rất lớn. Nó
từ từ bước trên đường mòn tiến tới nàng. Sitamona hoảng sợ vô cùng, rút phắt con dao cài ở thắt lưng, dù nàng biết rằng, ngay cả một dũng sĩ với
một thanh gươm sắc cũng khó lòng chống lại con hổ to lớn kia. Con hổ dài hơn hai mét, lông dài trắng như tuyết, đường bệ từ từ tiến lại. Cầu xin
Đức Phật xong, nàng vẫn thấy con hổ tiến lại, bèn nói: “Này con hổ kia. Ta biết ngươi có sức mạnh vô biên, là chúa tể của rừng Anura. Nhưng người
là mẹ, ta sẽ thề sống chết với sức lực cuối cùng để bảo vệ con ta. Cho dù một dũng sỹ không sợ”. Nói xong, Sitamona đặt con ra phía sau, trừng mắt,
cầm con dao nhỏ trong tay, một hai sống chết nhằm bảo vệ đứa con. Kỳ lạ thay, con hổ đứng lại, nheo mắt và không tỏ ra hung hãn. Trong chớp mắt sau
đó, nó quật đuôi, vọt qua đầu nàng rồi quắp đứa con tha đi. Sitamona hoảng hốt đuổi theo hổ. Hình như con hổ có ý đợi nàng, nó chẳng hề vội vã, cứ
thong thả đi sâu vào cánh rừng đại ngàn Anura. Hổ dẫn nàng tới một con suối nhỏ và vượt qua nó. Bỗng đột ngột hiện ra trước mắt nàng Sitamona một
ngôi chùa nhỏ, ẩn mình dưới những tàn lá. Con hổ đặt đứa con của nàng trên tấm thảm rộng màu huyết dụ gầm lên một tiếng rõ lớn. Sitamona ngạc nhiên
vô cùng, khi thấy hổ trắng quất đuôi vọt đi như chưa từng xuất hiện.

Nàng Sitamona đi khắp ngôi chùa hoang. Quanh nơi ấy, nàng phát hiện ra rất nhiều hoa trái đủ cho nàng lần hồi sinh sống, có sữa nuôi con khôn lớn.
Thi thoảng nàng lại lấy một góc hươu, nai hay một con thú nào đó thịt còn tươi roi rói. Hình như chúa sơn lâm đã bắt các thú vật đem đến cống cho
nàng.

Năm tháng trôi đi, đứa trẻ ngày càng lớn khôn và sau này, nó chính là tràng chai kiêu hãnh, tổ tiên của dòng họ Sinnatuerrai nổi tiếng, chinh phục
lại toàn bộ các bộ lạc khác trên vùng đất bao la Anura. Sau khi con đã thành chủ soái, Sitamona đi đâu không rõ.

Người kể chuyện nói rằng, nàng trở lại ngôi chùa cũ và tu rồi hóa thân tại đó. Người kể chuyện còn nói, chính Đức Phật đã hóa thân vào con hổ chỉ
lối đưa đường cho nàng Sitamona. Nhưng có người lại giải thích khác, cho là, con hổ to lớn ấy chính là một con hổ mẹ từng mất con, nếu hiểu được
tấm lòng của nàng Sitamona và cứu nàng. Người kể chuyện này bảo, khi người ta yêu tới cùng chân ngã, sẽ cảm thông được với muôn loài, thậm trí là
cả vũ trụ . Cuộc sống sẽ hội đủ cơ duyên cho kẻ chân thành, dám liều chết cho tình yêu của mình và tạo được hoàn cảnh cho những mầm thiện hay mầm
ác sinh diệt.

Kumar hồi nhỏ không biết tin vào giả định nào trong hai giả thuyết. Ở quê anh, người ta thờ cả Phật và hổ, vậy có phải Thần hổ được thờ là con hổ
trắng xưa kia đã cứu nàng Sitamona hay không? Nhưng dù thắc mắc ấy chưa được giải đáp. Kumar luôn tin rằng, có thể Đức Phật là hiện thân tất cả,
hiện hữu ở mọi nơi, trong những hình hài khác nhau, tạo nên những cơ duyên để thử thách lòng kiên nhẫn của người và vật, giúp họ nhận ra chính họ
mà thoát khỏi các kiếp nạn. Giờ đây Kumar đã bôn ba nhiều, anh luôn cảm thấy điều ấy đúng và anh cố gắng biết bao nhiêu để rồi lên hoàn cảnh, bất
cứ khi nào cũng cố gắng làm mọi điều tốt lành, tử tế. Đêm nay anh đã gặp mẹ con Quyên. Cuộc gặp này âu cũng là chuỗi cơ duyên mà Đức Phật bày đặt
ra bấy nay chăng?

Cả đêm anh không ngủ. Kumar miên man tính, ngày mai sẽ trình diện cảnh sát và nói gì? Anh cũng nhớ những buổi ban đầu gặp Quyên, cái đêm cô tự vẫn
và nhất là khuôn mặt đẹp thiêm thiếp triền miên hai tháng của Quyên trong viện. Lòng anh nhói đau khi nhớ lại những sự việc ấy. Bây giờ mẹ con cô
lại gặp việc trớ trêu này. Sao người ta lại có những cảnh ngộ oái oăm như thế? Mà sao bao nhiêu điều như vậy lại cứ dồn vào Quyên? Phải giúp cô ấy
thôi. Anh nào đã yêu nhưng thương Quyên quá. Cô ấy luôn làm anh nhớ tới người chị vô vàn yêu thương, đã không còn trên đời này nữa của anh. Theo
Kumar, thế gian sinh ra đàn ông và đàn bà cho họ gặp nhau, tan và hợp, nhưng đàn bà bao giờ cũng là người khổ nhất. ở đâu cũng khổ! Trong hoàn cảnh
nào cũng khổ, nhất là khi chiến tranh hay đói nghèo mà ly loạn, thì thân phận họ, đúng là như cái lá nhỏ dạt trôi, trôi mãi, có khi vô định trên
mặt suối, trên những con sông, rồi có ngày mủn ra, chìm xuống, tan rã vào bùn cát…

Bên phòng lớn, Quyên cũng trằn trọc mãi. Gần tới sáng, cô nhỏm dậy rón rén tới bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời đêm thăm thẳm và gió cứ hu hú thổi
trên các lỗ hở của ống máng, nghe như tiếng trụ rất nhỏ, xa xăm của chó sói. Quyên bống nhớ tới hàng rào nơi trại tị nạn những ngày đầu cô tới Đức.
Trong đầu cô hiện lên những đóa hoa hồng dây thắm đỏ rực rỡ từng chùm trong nắng. Bức tường hoàn toàn hồng bao quanh trại.Đóa hồng cô thấy đẹp
nhất, to nhất, thắm nhất, nặng trĩu những giọt sương qua đêm bị nhiều ngọn gió dập lên dập xuống, đập vào hàng rào, sớm ra tã tượi, buông hết những
cánh hồng mỏng bay từ tán trên mặt đất.

Quyên, mi là cái gì? Giờ mi về đâu?

Phần 10

Đến phố xá miền Tây yên tĩnh tới kỳ lạ. Trên vòm trời thăm thẳm dầy đặc những chòm sao lấp lánh. Cô thấy buồn nghê ngớm, nhớ nhà vô cùng. Giá như
bây giờ cô được ở Hà Nội, trong ngôi nhà nhỏ ấy và bên mẹ, có lẽ cô sẽ gục đầu vào lòng mẹ khóc thỏa thuê cho vơi đi những nỗi ê chề, đau đớn, tủi
nhục của một quãng thời gian tha hương, dù chưa nhiều nhặn gì. Cô đi đâu bây giờ? Nếu như cô ở lại đây liệu có nguy hiểm nào kéo tới như tình huống
đã xảy ra khi ở nhà Phi không? Hay là cô tới trại mới? Không được. Thế nào mai cảnh sát cũng biết, cô đã có mặt bấy nay ở nhà Phi. Tới trại ấy, khi
họ thẩm tra về vụ án này, tiếng Đức không biết nửa câu, cô không thể giải thích mọi việc. Vả lại cô làm gì có tiền thuê luật sư. Cô ở lại với
Kumar, có lẽ thuận lợi hơn, nhất là thời điểm này. Thời điểm là sớm mai cô sẽ làm như Kumar dặn, trình diện để là nhân chứng, chữa tội cho Phi. Cô
cũng không thể bỏ mặc Phi lúc này. Nếu vậy, Kumar rành tiếng Đức, có thể giúp cô và Phi qua cơn hoạn nạn. Nhưng ở lại đây, liệu có xảy ra chuyện gì
như đã xảy ra khi cô trú ngụ ở nhà Phi không? Có lẽ không! Ngày trước, cô chốn chạy Kumar, không phải sự chốn chạy một con đực, mà cô bị ám ảnh bởi
giấc mơ coi Kumar là ác quỷ, muốn chiếm đoạt đứa trẻ. Nay cô đã cảm thấy, dù mong manh, anh ta yêu thương đứa con cô, chăm sóc nó khi cô hôn mê,
lại vô tư bỏ công tìm kiếm cô và nó bấy nay. ừ, mà thân cô thì còn gì nữa để mất? Cô đâu còn là đóa hoa Đỗ Quyên ngậm sương ban mai, trinh nguyên
và sang trọng. Cô chỉ là một kẻ bị hãm hiếp tới có chửa, một người vợ bị chồng khinh bỉ, đã từng tự sát không thành, lại nhục nhã ê chề ở nhà
Phi… Với cô, bây giờ chẳng có điều gì giá trị, lớn lao hơn đứa con của cô.

Thôi, cứ liều mình ở lại đây đã. Nghĩ vậy, Quyên thấy nhẹ lòng, nhắm mắt cố ngủ.

Đêm ấy không có chuyện gì xảy ra.

Cô không hề nghe bất kì tiếng động nào, ngoài tiếng gió và gần sáng cô nghe thấy có tiếng động ngoài cửa sổ. Nhìn lên, một con mèo rõ lớn, đôi mắt
to xanh biếc nhìn cô không chớp. Cô nhìn rõ đôi mắt vàng như hai hòn bi tròn loé sáng trong ánh đèn pin Kumar đưa cho cô hồi đêm.

Hồi cô nằm viện, Kumar có lần bảo, anh chỉ thích nuôi chó, không thích mèo lắm. Vậy đây là con mèo hoang. Mà ở Tây sao lắm mèo hoang thế? “Đêm lạnh
lắm. Sao mày cứ lang thang một mình đêm hôm thế này?” Quyên tự xót xa, thầm nghĩ.

Con mèo hoang đưa hai chân khẽ cào vuốt vào tấm kính. Quyên nhỏm dậy, đi tới cửa, vặn chốt, mở hé cửa sổ. Con mèo nhảy phắt xuống nền nhà và đường
bệ bỏ đi, ung dung bước từng bước một chậm rãi về phía nhà bếp, như thể ngôi nhà Kumar đã quen thuộc vô cùng với nó.

Quyên thở dài!

Sự gắn bó của Quyên sau đêm gặp gỡ với gã Sri Lanka như số phận bày đặt.

Sáng sớm hôm sau, Kumar trình diện cảnh sát, với tư cách anh là nhân chứng gặp Quyên ngay sau khi cô bước ra khỏi nhà Phi. Khớp nối với giờ Phi gọi
điện thoại báo cho cảnh sát rằng mình đã giết vợ, người ta xác nhận điều anh khai báo. Kumar cũng đưa ngay Quyên tới trình diện đồn cảnh sát gần
nhất. Theo anh, cô là nhân chứng rất quan trọng của vụ án mạng. Tất nhiên, Quyên cũng sợ, nhưng khi Kumar nói rằng, lời khai của cô có thể giúp Phi
tránh được tội cố sát. Quyên đồng ý đi với Kumar tới trình diện cảnh sát.

Đi cùng anh, Quyên vững tâm hơn. Nhất là vài tuần sau đó, trong quá trình cảnh sát thẩm vấn cô, Kumar như một phiên dịch thạo nghề, giúp đỡ cô khỏi
sự sợ hãi và lúng túng.

Tháng Giêng, rất ngẫu nhiên, người ta tìm thấy rằng Y trong một lần kiểm tra tìm mấy kẻ không giấy phép lao động, ở khu chợ bán buôn Rihn 100 của
người Việt Nam tại Berlin. Vụ án nhanh chóng kết thúc quá trình điều tra, ngay sau khi lấy thêm lời khai của Y. Việc tìm thấy Y cũng làm đám cảnh
sát rất khó hiểu. Tại sao ở một góc chiếu, Y là người bị hại mà hắn im lặng, không tố cáo, phát giác, lại lẩn trốn suốt bấy lâu nay? Cảnh sát suy
đoán, có điều gì đó ẩn khuất của Y trong vụ án này và khai thác Y gần hai tháng. Cuối cùng họ cũng chỉ nhận được một thông tin đơn giản tới không
thể hiểu với người Đức rằng, tôi – Y – không muốn rắc rối.

Đúng là chẳng hiểu được, khi Y khai: “Tôi đã nhìn cái ảnh chụp bà ấy trên báo, nằm chết tại nhà anh Phi. Chết thì đằng nào cũng chết rồi! Nếu tôi
khai báo, tôi sẽ mất thời giờ lắm”. Người ta mở rộng điều tra, nhưng vẫn không sáng tỏ hơn điều gì. Cảnh sát chấm dứt tìm hiểu thêm vì nhận ra cộng
đồng của Y là một cộng đồng khép kín, nên khó có thể khai thác gì hơn những điều mà máy móc và phương tiện kỹ thuật có thể mang lại thông tin cho
họ. Bởi vì, máy gh âm từ xa, chương trình nghe lén điện thoại… chẳng tác dụng gì khi Y đã bị bắt. Tuy nhiên từ các vết tích còn lại của kỹ thuật
thu âm lén, họ thừa biết, Y có quan hệ khá rộng với nhiều nhân vật trong nhóm mafia Việt, đang bị theo dõi bấy nay.

Đêm trước ngày tòa xử án, Quyên trằn trọc tới sáng.

Sáng ra, cô và Kumar dậy rõ sớm. Bữa sáng bánh mì và cả sữa tươi cũng giường như đắng ngắt.

Họ có mặt tại phiên tòa rất đúng giờ, phút chờ đợi cảnh sát dẫn Phi tới, Quyên thấp thỏm, đừng ngồi không yên: “Không biết anh ấy bây giờ hình hài
ra sao?” Tới khi Phi vừa hiện ra ở cánh cửa nách với hai cảnh sát dẫn giải, Quyên nhỏm phắt dậy và tái mặt.

Kumar ngồi bên nắm lấy tay cô, cô ngục mặt xuống, những giọt lệ từ đôi mắt đẹp lã chã rơi.

Phi đã gầy đi nhiều, hai mắt quầng thâm và mệt mỏi. Rõ ràng Phi đã qua những ngày dằn vặt và đau đớn. Đêm qua nằm nhìn trân trân lên trắng trần
nhà. Quyên nhớ lại những hình ảnh, kỷ niệm trong thời gian ở quán ăn nơi Phi đã dành cho mẹ con biết bao điều tốt đẹp.

Kumar im lặng bên Quyên. Khó ai có thể biết anh nghĩ gì. Nhưng nếu quan sát nét mặt ưu tư của anh, khi anh quay sang nhìn Quyên, thì có thể hiểu,
lòng anh cũng vò xé khi thấy Quyên xúc động như thế. Anh là loại người từng trải, biết kiềm chế những xúc cảm cá nhân, nhưng cũng không phải là
loại người ích kỷ chỉ nghĩ tới mình. Anh không dám chắc, Quyên đã từng nghĩ gì, song những việc xảy ra, kể cả tình cảm của Quyên dành cho Phi như
vậy đều có thể hiểu được. Nếu ở trường hợp như Quyên, gặp lại một người đã vì mình mà rơi vào vòng lao lý thì có lẽ anh cũng động lòng. Chỉ có
điều, anh là người con trai Sri lanka không dễ dàng nhỏ lệ như Quyên mà thôi.

Phiên tòa kéo dài gần hết năm tiếng đồng hồ trong buổi sáng hôm đó. Điều khó nhất là Quyên phải tường trình trước tòa vài tình tiết trong buổi tối
xảy ra án mạng, coi những chứng cứ giúp họ xem xét điều đã đầy Phi vào trạng thái điên khùng, cầm dao chém Y như bản cung. Cô cứ ôm tay ôm mãi lấy
ngực. Cuối cùng cô cũng chỉ nói ra một câu đơn giản, đủ để tòa hiểu tình huống trước đó: “Chúng tôi đang nằm bên nhau, yêu… nhau”. Vâng, yêu nhau
thì bà ấy và Y xuất hiện. Tôi không hề biết rằng, bà ta là vợ của anh Phi”.

Quyên ý thức rất rõ rằng, dùng hai từ “yêu nhau” là không đúng hoàn toàn. Song Quyên không thể nào tìm từ khác, dù vì trong thâm tâm, cô tự biết cô
chưa khi nào yêu Phi cả, nhưng cô không thể nào dùng từ “làm tình”. Với cô, từ ấy nghe xa lạ. Cô cũng không giám sử dụng cái từ “cặp bồ” mà đồng
bào cô vẫn dùng. Cô ghê tởm khi nghĩ tới những chữ cặp bồ và làm tình. Thôi thì cô đã thương gã, biết ơn gã và có giờ phút không kiềm chế, thả lỏng
cô, như sự trả ơn để cho gã “yêu” cô. Nhưng cô nói ra như vậy thì khó ai hiểu nổi.

Phiên tòa kết thúc. Phi nhận án hai năm từ về tội ngộ sát. Y cũng bị luận tội về cố ý nhục mạ và có hành vi xâm phạm thân thể Quyên. Hắn bị tuyên
phạt 3 tháng án treo và phạt tiền 2.000 Euro.

Phi được nói lời cuối cùng. Anh yêu cầu cho anh gặp Quyên một chút, Tòa đồng ý với đề nghị ấy, cho phép Phi gặp Quyên. Việc ấy diễn ra ở phòng bên.
Quyên chạy tới, lần đầu tiên từ khi quen biết nhau, cô chủ động ôm lấy Phi, để nước mắt chảy xuống trên đôi vai của anh. Phi nghẹn ngào và lúng
túng. Anh đứng yên như cây gỗ. Chẳng nói một lời, bàn tay cứ vuốt mãi lên mái tóc cô, tận tới khi viên cảnh sát nhắc nhở, anh mới buông Quyên ra và
bước theo họ. Khi sắp khuất vào sau cánh cửa ngách bên tòa án, anh quay lại. Đôi mắt đau đớn nhìn Quyên. Mãi mãi sau này Quyên vẫn nhớ ánh mắt anh
ấy khi ấy và hiểu, Phi yêu cô thật lòng.

Suốt cả buổi xử án, Kumar ngồi bên Quyên, anh hoàn toàn không tỏ một thái độ gì trước mọi biểu hiện tình cảm của Quyên. Lúc Quyên gặp Phi, anh bước
ra phòng bên ngồi chờ.

Tự nhiên anh thấy nao nao buồn.

Mùa xuân năm ấy tới muộn.

Hiếm bao giờ, trong cả ba bốn tháng đông trước đó, có một ngày hanh hao xa vắng, để vạn vật se sẽ run rẩy. Bởi lẽ giản dị là, khi qua những tháng
dài mùa đông lê thê, với bao ngày đằng đẵng tẻ nhạt, lạnh lẽo, quá đỗi u ám, buồn chán thì dường như người ta càng khao khát, mong chờ tới khắc
khoải một ngày không mưa, không tuyết chẳng gió và nắng vàng chan chứa ùa về.

Bữa ấy nắng về đột ngột. Mặt trời từ trong đám mây xám, chói chang hiện ra, làm cả không gian trước đó đang hết sức ảm đạm, bỗng bừng rạng khác
thường, như báo hiệu mùa đông sắp giã từ. Những tia nắng đầu tiên tựa màu hổ phách, mang cho người ta cảm giác ấm áp lạ thường. Thoáng chốc nhìn
từng chùm nắng chiếu xuyên qua những vòm lá, người ta bất giác nhận ra một thời khắc vạn vật chợt tỉnh thức, hồi sinh và dường như tất cả đều nghẹn
ngào đến bàng hoàng trước tia nắng đầu tiên. Và, con người, Quyên, một trong ti tỉ sinh linh, chủ thể chính, đầy nhạy cảm của hành tinh này cũng
chợt run lên…

Ấy là khi tháng Ba, forsythia nhoi nhói xé vỏ cây, vùn vụt bật ra những mầm hoa, búp lá để vài hôm muôn vàn bông hoa nhỏ nở bung, bừng lên mầu rực
rỡ, tựa như từng đám lửa vàng cháy sáng rực cả góc vườn.

Tuyết sương vừa tan, trong đêm những củ hoa dầm lâu trong băng giá và u tối bỗng cựa mình. Từ lòng đất những chồi trắng xanh thi nhau nảy ra chua
chúa, tách khỏi ám củ màu nâu. Đám chồi ấy trong vài đêm kiên trì chọc qua lòng đất lạnh lẽo âm thầm nhao lên, vươn trên mặt đất, chuyển màu xanh
nõn, để sau chỉ vài ngày, những đóa tuy-lip chợt hé mở, vụt lớn, rồi nở bung, nom tựa như trăm ngàn ngọn đuốc cháy đỏ rực, nhoi nhói thắp ánh sáng
suốt ngày đêm trên các luống hoa năm trước.

Sức sống cuồn cuộn trào lên trông thấy ở khắp nơi trên mặt đất vừa hừng ấm, như tất thảy vạn vật cùng nhau hò hẹn vào xuân.

Tới giữa tháng Tư, hoa lê và hoa anh đào rụt rè khoe sắc trên những cành cây xám đen gầy khẳng khiu. Ai tinh tế sẽ nhận ra vào một sớm mai, trên
những cành lê cong queo, khô xác, còn đầy những giọt sương đêm, bỗng xuất hiện vô khối đọt tơ nhu nhú xanh. Và, chỉ sau có hai ngày nồng nàn nắng
ấm, đám đọt tơ li ti mong manh ấy thoắt phổng lên, biến thành những đóa hoa lê trắng muốt. Chẳng đợi lâu đâu, nửa tuần thôi, cả rừng lê bừng rộ,
chan chứa cả dãy phố, cả cánh rừng ven thành phố, một màu trắng ngàn ngạt, tinh khiết. Mom xa xa, những trảng hoa lê tựa như dải lụa trắng tinh đầy
phấn, phủ trên những khoảnh vườn, dải rừng mà tháng trước còn thui thủi choàng khăn màu u xám.

Đám anh đào muộn mằn hơn một chút. Dường như loài cây mà hoa đầy màu sắc lộng lẫy này cần thời gian nhiều hơn để tự nó hút thêm nhụy đất, phan trộn
thêm những gam màu diễm lệ cho mùa xuân. Từng vạt hoa tím sẫm, hồng nhạt, nở bung rộn rã cả mắt. Chờ một làn gió nhẹ, muôn ngàn cánh hoa anh đào
rụng xuống, chao đi chao lại khắp vườn. Đôi khi có cơn gió lớn, cả khu vườn cây quả lập tức như có ức vạn con bướm tím, hồng la đà, rập rờn bay
khắp nơi, khắp chốn.

Cũng còn có hôm tuyết lất phất nửa giờ, – như thể đó là ngày ông trời già muộn nằm giũ chăn màn để cất đi trước mùa hè, – tuyết rải tung tóe xuống
khắp thành phố đám tơ trời trắng mong manh, nhỏ, nhẹ, xốp như bông; hệt như những gì còn sót lại của mùa giá băng, xin được lần cuối trút hết, để
trả lại nền trời xanh văn vắt.

Rồi cứ nắng. Nắng chan hòa, vàng ấm miên man ngày lại ngày, khi se hanh, khi âm ẩm tràn ngập mặt đất. Rừng sáng rực, phố xá sáng rực, các cánh đồng
ngời lên màu xanh miên man. Ngay cả các con sông cũng trở mình, trong xanh hơn và êm đềm hơn. Rồi những ngọn gió trên sông cũng thoát tinh khiết lạ
thường và thơm hừng mùi thảo mộc từ những cánh rừng, đồng cỏ bên sông tràn xuống.

Trên cánh đồng, khi mưa ấm lất phất rơi, cỏ cây, hoa dại cũng đua chen nhau mọc, để các khoảnh đất nối liền nhau, bao la một màu rất đỗi dịu dàng,
non nõn, xanh mướt, chạy mãi tới tận chân trời cũng xanh ngăn ngắt. Nhìn kìa, quanh ta chẳng thể rạch ròi, đâu là trời, đâu là đất. Tất cả, tạo cho
người ta một cảm giác thật là dễ chịu…

Thiên nhiên hớn hở thay đổi như vậy làm cho Quyên thấy dịu đi những đau đớn trải qua.

Tháng sau nữa, Kumar xin được căn hộ rộng hơn. Căn hộ mới có ban-công nhìn ra cánh đồng. Quyên hay bế con ra đó ngồi trong những buổi chiều, dõi
tầm mắt ra xa. Tháng Năm, không khí ấm dần lên. Có ngày nhiệt độ tới ba mươi độ mà vẫn thấy dễ chịu. “Cái nắng ở xứ này bao giờ cũng dịu dàng và
không khí thì thật trong sạch, tinh khiết đến lạ thường”. Thế mà những khi ấy, lòng Quyên chợt nôn nao buồn. Bởi dù có sự sạch sẽ hay đẹp đẽ tới
mấy thì ngay cả nắng và không khí cũng xa lạ và chưa bao giờ thuộc về cô. Cái tâm sự của người tha hương với tâm hồn như Quyên rõ là kỳ lạ! Cảnh
sắc có tươi tới mấy, không gian có đẹp xiết bao, cũng chỉ mang lại cho cô niềm vui thoáng chốc để sau đó những miên man suy nghĩ và nhớ nôn nao nơi
cô lớn lên, từng sống, dù là vùng sống ấy, nơi quê hương quen thuộc, chẳng có những ưu việt vật chất hơn nơi cô đang sống.

Mùa này Hà Nội qua xuân vào hè đây. Tự nhiên cô nhớ cái nắng hạ chan chứa oi nồng, bứt dứt và dâm dấp mồ hôi… Cô nhớ, đếm lại trong đầu bao nhiêu
dãy phố, hoa bằng lăng từng dãy nở tím suốt từ tháng Sáu tới tháng Bảy và phượng chúm chím khoe nụ để có dăm ngày kế đó làm cả một đỏ rực rỡ nom
như những mảnh lửa cháy đỏ chập chờn trong hây hây gió đông thổi trên những tàn xanh dịu mát. Cô nhớ từng bữa dạo quanh Hà Nội của cô có màu vàng
ấm áp sáng lên mỗi chiều của những chùm hoa hoàng điệp. Ừ, hoàng điệp vàng mà chẳng buồn. Cái sắc màu vàng mơ tươi sáng của những chùm hoa nhỏ này
làm cho đường phố mềm đi, bớt đi oi ả hơn, nhất là vào những ngày có gió nhẹ, người đang tâm trạng có thể bâng khuâng chút ít để chợt nhớ thương ai
đó, điều gì đó ấp ủ bấy nay… không như loài đỗ quyên, màu đỏ sậm mà mỗi khi ngắm, dù vừa sau Tết, đang vui thế, ồn ã thế đã thấy lòng cô sao trở
nên buồn thế. Phải chăng, những tên hoa, màu hoa cũng ẩn chứa, gợi mở một số phận định trước, nếu ai đó đã lấy tên loài hoa ấy đặt tên cho một con
người?

Tết vừa qua liệu mẹ có gói bánh chưng như hồi con ở nhà không?…

Căn hộ Kumar mới nhận gồm ba phòng. Tại phòng ngủ lớn, anh đặt một cái giường rộng, màu phớt hồng dành cho Quyên. Cái cũi nhỏ bằng tre, mua ở gian
trưng bày triển lãm đồ mây tre Việt Nam, đặt bên giường hồng, làm Quyên thấy vui vui. Theo cô, Kumar là người đàn ông chu đáo và tâm lý.

Hàng ngày đáp lại sự chăm sóc che chở bấy nay của Kumar, Quyên giúp anh những việc trong nhà. Công việc cũng không nhiều nhặn gì, cô thu xếp, lau
dọn nhà cửa. Cô giặt quần áo cho cả Kumar, là ủi chúng thơm phừc và sắp xếp cẩn thận. Cô lo bữa sáng và nấu cho Kumar được ăn nóng bữa tối. Những
ngày nghỉ, họ được một ngày trọn vẹn bên đứa trẻ và đôi khi cũng bày biện những bữa ăn là lạ, mất nhiều công chế biến, làm cho Kumar có một cảm
giác như được sống trong một gia đình ấm cúng. Thi thoảng, có ngày ít khách ở quán, Kumar tranh thủ tạt về ăn trưa ở nhà. Những ngày ấy, anh đều
báo cho Quyên trước và vui vẻ bày tỏ: “Em biết không, tôi ăn ở nhà thấy ngon miệng hơn”.

Những việc tương tự như vậy, với người khác thật là nhỏ nhoi, cũng làm cho Quyên vui ra mặt. Cô thường im lặng, tủm tỉm cười.

Thời gian vùn vụt trôi đi. Quyên cảm giác cuộc sống bình thường đang dần dần trở lại.

Quả thật như vậy! Nhìn Kumar thể hiện tình cảm của anh với Thanh Vân, cô cũng thấy vui, ấm áp! Nhất là khi thấy đôi mắt anh sáng rực, cười trẻ
trung, hồn nhiên và dễ thương, nhao vào bế Thanh Vân lễ và cõng nó đi tới ba bốn vòng xung quanh gian phòng khách rộng. Cái phòng khách, nơi có bức
tranh Kumar vẽ trong suốt mùa xuân vừa mới hoàn thành.

Những niềm vui nhỏ bé ấy, của một kẻ tha hương cứ từng ngày, từng ngày sống trong cô, cho cô cảm giác an bình và chính những niềm vui tương tự như
thế làm Quyên dần dần dịu đi cơn chấn động trước đó. Những chấn động đã từng gây cho cô bao mệt mỏi và đau đớn mỗi khi nhớ lại nó.

Tháng Tám, cô viết thư về cho mẹ. Thư kể chuyện chồng cô mất tích và cô đang cố gắng thu xếp cuộc sống ổn định. Thư không kể việc cô đã có con, mẹ
cô đã có một đứa cháu ngoại gần một tuổi. Quyên nghĩ bây giờ chưa cần thiết báo cho mẹ tin ây. Cô sẽ phải giải thích rất dài dòng và làm mẹ chỉ
buồn lo mà thôi.

Tháng Mười, cô viết một lá thư rõ dài cho bố mẹ chồng. Thư thuật việc vợ chồng cô bỏ nước Nga vượt biên qua Đức, cảnh sống trại tị nạn và việc
chồng cô mất tích. Cô xin lỗi bố mẹ chồng vì việc không thể tìm thấy chồng cô, dù đã nhờ cả cảnh sát kiếm tìm hơn một năm nay.

Sau khi thả lá thư gửi cha mẹ chồng vào khe hộp thư bưu điện thành phố, cô thần người ra tới nửa tiếng.

Rõ ràng, sự việc xảy ra với cô ở biên giới không phải lỗi ở cô. Việc Dũng mất tích cũng không phải lỗi ở cô. Nhưng việc cô ở đây với Kumar , hay
trước đó ăn nhờ ở đợ nơi Phi, cho cô cảm giác, sau khi gửi lá thư viết cho bố mẹ chồng, hình như cô mắc lỗi với gia đình Dũng. Có lẽ phải đi tìm
nhà để ở riêng thôi. Hay là lại đi tới Sở ngoại kiều lấy cái giấy chuyển trại? Tất nhiên, ở Hà Nội, không một ai có thể biết bao nhiêu sự việc đã
xảy ra thế nào, cũng như hiện tại cô đang nương nhờ tại nhà của Kumar ra làm sao, nhưng lương tâm cô thì rõ, biết tất cả.

Đêm đó trăng non, lại mây thấp.

Quyên từ ban-công nhìn xuống. Từng quầng ánh sáng đèn đường hắt xuống đám là vừa rụng ngày qua, phản lên một màu vàng lợt.

Trong cuộc đời con người ta, dù muốn hay không, phần đông đều sống theo bản năng mất quá nửa đời người, đó là khi phải ngũ, bài tiết, hấp thu…Sự
sống ở trong đó. Mần sống tồn tại khách quan, ngoái ý trí và những giáo lí chủ quan của con người cũng được nuôi dưỡng trong những khoảng thời gian
tưởng như vô nghĩa ấy. Cũng để tồn tại, con người ta khi lâm vào con đường cùng, thì bản năng thường là điểm tựa, tỉ như cái bàn đạp, để bật lên,
nhao ra, thoát khỏi mọi hiểm nguy, kể cả cái chết.

Mấy đêm liền Quyên trằn trọc suy nghĩ mãi việc đi hay ở.

Cô nhớ lại thời gian ở với Phi, tiếng chân rón rén rồi yên lại bên cửa sổ phòng cô, Cảnh Phi thủ dâm trong ánh sáng phát ra từ cái vô tuyến. Cô nhớ
cả những tâm sự, lời tỏ tình và mong muồn lấy cô làm vợ của anh. Còn ở đây, Kumar bao giờ cũng nghiêm túc với cô. Mỗi khi anh đi làm về, Quyên đều
biết rất rõ từng bước chân khe khẽ của Kumar bước nhẹ trên sàn gỗ mỏng. Cô hồi hộp, lắng nghe, nghe rõ tiếng Kumar xối nước để ngâm mình trong bồn
tắm. Và đôi khi, cô vừa nín thở lại thở dài ngay sau tiếng cửa phòng anh khép nhẹ.

Kumar không hề tỏ tình với cô. Ánh mắt của anh dành cho cô bao giờ cũng là sau ánh mắt dành cho Thanh Vân. Cũng chưa bao giờ anh nắm tay cô như cái
nắm tay của Thanh Vân. Cũng chưa bao giờ anh nắm tay cô như cái nắm tay của Phi. Nhưng ai mà tin được điều đó. Cô chẳng đã từng nghe thấy vài lời
thì thào của đồng hương ở cửa hàng bán đồ châu Á bữa nào, có một người nom ả quen biết, lân la hỏi chuyện cô và nói vỗ mặt: “Em đẹp thế, đàn ông
Việt thiếu gì, sao em lại ăn ở với thằng da đen ấy!”.

Người kia nói thế, Quyên thừa hiểu cái từ tế nhị anh ta dùng. Hai từ ăn ở trong trường hợp này, rõ ràng mang một nội dung chẳng tử tế gì. Nói trắng
ra là, họ cho rằng, cô là kẻ lăng loàn, đã ăn nằm với Kumar!

Cô suy đoán, ở cái trại tị nạn Hộp kẽm Goldbeng, thế nào chuyện của cô cũng là chủ đề mang bàn luận trong các ngày nghỉ, bên phòng bếp và phòng
giặt đồ. Ừ, ai mà tin được, cô và Kumar vẫn còn ai nấy một phòng riêng.

Đối với Quyên, tình dục không chỉ là khoái cảm, thậm chí là hành vi nhằm sinh con đẻ cái, nối tiếp dòng sinh diệt, cái dòng chảy miên man của tạo
hóa. Theo cô, con người khác với vật ở chỗ đó. Hai con người lao lạc mà không có tình yêu, khi chỉ rặt lạc tính, khác gì đám trâu bò, chó, n gựa,
thể hiện năng lực nhục dục mà thôi.

Người ta, từ nhận thức tới ý thức, Người hơn ở chỗ có yêu thì mới ăn nằm với nhau. Bởi theo cô, tình dục trong tình yêu, đều có văn hóa của nó. Sự
giao hoan của người ta khi có tình yêu, sẽ thăng hoa lên một cấp độ mới, cho người ta hạnh phúc vô biên và gắn kết thêm bền chặt, cả tâm hồn và thể
xác, chứ không phải chỉ đơn giản là mang lại khoái cảm như Phi thủ dâm, để sau đó lại chán trường khi anh tâm sự. Tất nhiên bây giờ cô cũng chẳng
còn trình trắng gì, nhưng cô không thể chung giường với Kumar, khi cả hai chưa có tình cảm với nhau. Mà Kumar có yêu cô không? Hay với cô, anh chỉ
dành tình thương cho cô như thương một đứa em gái hoặc chị gái của anh? Vô duyên thế! Cô tự cười mình. Còn riêng phía cô, hình như có một tình cảm
nào đó, dù chưa rõ lắm, khi đứng bên anh và gửi thấy mùi mồ hôi của anh? Có phải cô đang tiến tới dần tình yêu với Kumar không? Hay cũng chỉ là một
tình cảm nào đó, na ná như tình yêu mà thôi. Nhưng cô là người muốn mọi chuyện phải rõ ràng, hay đúng hơn là cô không chịu được sự mập mờ, đan xen
nhau, không biết đâu là thật và giả, ảo và thực. Với Kumar, sự đối xử vô cùng tử tế bấy nay của anh với cô và bé Thanh Vân, chưa có gì thật rõ
ràng, để cô khẳng định: nó xuất phát từ tình yêu Kumar dành cho cô. Tất nhiên bây giờ cô đã là người từng trải. Người từng trải thì phải sống với
lương tâm của mình, sợ quái gì dư luận.

Nhưng liệu có thể kéo dài mãi tình cảnh này không? Cô cũng không thể nhờ và Kumar mãi!. Nếu quan hệ giữa cô và Kumar chỉ đơn giản là tình bạn, thì
việc chung nhà cũng chẳng nên quá kéo dài. Điều thứ hai quan trọng hơn nữa, là cô không thể chịu đựng mãi sự không rõ ràng của mối quan hệ, khi cô
mong cầu Kumar cần thể hiện rõ, thậm trí cần nói rõ bằng lời. Cô yêu Kumar rồi chăng? Quyên kéo theo chăn chùm kín đầu. Cô cười thầm và sợ rằng có
ai đó biết cô cười, nắm được những ý nghĩ trong đêm tối của cô.

Có lẽ tuần tới cô sẽ ra Sở Ngoại kiều xin một chỗ ở.

Nhưng sự đời mấy khi đúng dự kiến của Quyên?

Đầu một tuần trong tháng Năm, gió lại thổi mạnh. Những cơn gió ở châu Âu, từ trên biển Bắc áp thấp, tràn về mạnh tới kinh hãi. Gió cứ ào ào, miên
man cuồng đảo suốt từ sáng tới trưa hôm sau chưa dứt. Nhìn ra ngoài trời, thấy từng đợt một, những cơn gió lẫn trong mưa tàn nhận giật lên, vật
xuống làm cây phong, bồ đề trên đường phố. Gió cuốn theo vài đám lá úa, xác xơ còn sót lại của mùa đông giấu trong các xó xỉnh, trên các ống máng,
rồi ném lên trời, quấn tròn mãi lên cao, bay đi xa lắc, cho đến khi không nhìn thấy tăm hơn. Những đám lá ấy, trong gió, đôi khi chợt như đàn bướm
ma bay chập chờn ngang sườn những ngôi nhà chọc trời. Về đêm gió mạnh lên, tới mức thổi bạt cả người đi bộ. Từ thứ Ba, giữa trưa gió ngưng, thì bất
ngờ mưa dữ dội và lạnh bất ngờ. Thời tiết chuyển lạnh, như mùa đông đột ngột quay về thành phố, cuốn theo từ đâu về dày đặc những đám mây nặng nề,
u ám. Có khi mây tản ra, co lại, biến ra trăm hình, vạn trạng. Có đám mây nom giống hệt một khuôn mặt méo mó, giận dữ đang ở lưng trời nhìn xuống
mặt đất. Khí lạnh len nhỏ vào các hầm nhà, làm những viên đá chữ nhật trong vách tầng hầm cũng đổ mồ hôi hột.

Bé Thanh Vân viêm họng và ho ngay lập tức từ thứ hai. Gần một tháng trời sau tuần ốm ấy, con bé lại mọc liên tiếp thêm bốn cái răng. Nó quấy triền
miên ba tuần. Có hôm đi làm về Kumar thấy Quyên ngủ ngục bên ghế, tay còn cầm cốc nước. Lay dậy, Quyên mở mắt nhìn Kumar vài giây, rồi lại gục
xuống. Thực ra cứ ba hôm một lần, Quyên cùng bé đều đặn tới phòng khám. Nhưng ở đây người ta chẳng tống kháng sinh vào người con bé như ở Việt Nam,
thành ra nó cứ quấy suốt, lại quấy vào đêm. Phải tới cả tuần sau, khi những chiếc răng đã chọc ra khỏi lợi và đùn ra hết, bé mới chịu chơi như
thường. Hai ba ngày thấy ôn ổn, Quyên đã đĩnh thu xếp hôm sau tới Sở Ngoại kiều.

Đêm hôm đó tới tận một giờ mà Kumar vẫn chưa về. Cô gọi điện thoại tới cửa hàng bánh. Không một ai nhấc máy. Lòng Quyên bỏng rát hơn lửa đốt. Cô
ngồi yên trong phòng khách, bật ti-vi chuyển bao nhiêu kênh mà không theo dõi nổi một chương trình trọn vẹn. Thiếp đi trên ghế tựa, Quyên bừng giấc
khi có chuông điện thoại réo gọi. Tai cô ù lên khi nghe rõ giọng của Kumar yếu ớt báo tin rằng anh đang nằm tại bệnh viện.

Thì ra trong đêm ấy, một người lái chiếc xe tải đâm thẳng vào hông chiếc xe Kumar lái. Xe Kumar lăn đi ba vòng. Cửa kính vỡ hết. Những mảnh kính
vỡ, bắn ra đâm vào cổ, vào mặt làm anh mất khá nhiều máu. Lúc tỉnh dậy trên băng-ca xe cấp cứu, anh mới biết mình bị tai nạn. Anh bảo, cái cổ đã bị
gông cứng bằng một vòng kim loại có bọc lớp bông vải màu trắng nên khó cử động. Anh giải thích, đã nhờ cô y tá gọi điện thoại về cho mẹ con Quyên,
nhưng cô y tá lại bấm nhầm số máy cuối, không báo tin được. Tiến hành xong một loạt xét nghiệm và chiếu chụp, anh mới biết mẹ con Quyên vẫn chưa
hay việc anh bị tai nạn và trời thì đã gần sáng.

Quyên buông máy điện thoại, lao vào bếp chuẩn bị bữa sáng cho con ăn. Cô lay con dậy và dỗ mãi cho nó ăn thật nhanh hết ca sữa.

Chẳng chờ sáng hẳn, Quyên mặc vội chiếc áo ấm, quấn thêm khăn, ôm con lao ra đường. Đường vắng. Tay lái taxi rất thuộc đường, chạy cũng nhanh mà cô
vẫn cảm thấy chiếc xe đi chậm như rùa.

Cầu tháng máy dường như cũng đóng mở cửa chậm hơn mọi ngày. Ra khỏi thang máy Quyên lao vào phòng nơi Kumar đang nằm.

Cô hốt hoảng và đau sót khi nhìn thấy Kumar bị thương khớp mặt, vai trái và đầu gối cũng quấn băng trắng toát.

Kumar khi đó mặc mỗi chiếc quần trong, nằm trên chiếc giường bệnh trắng tinh. Thân hình đen cuồn cuộn cơ bắp của Kumar nổi bật trên nền ga trắng
muốt.

Bình thường, Kumar vốn dĩ lao động từ nhỏ, rừng núi và khí hậu quê hương anh cũng như nòi giống tạo cho anh có thân hình tráng sĩ rất đẹp: vai
vuông, bụng thon, ngực nở như hai bát úp. Nhưng chẳng mấy khi anh để lộ thân hình anh trong nhà. Bây giờ cái hình thể cường tráng của Kumar đập vào
mắt Quyên, dầu có những viền băng, bông trắng xóa ở tay, ở chân và cả trên cái cổ! Có thể nói, anh xứng đáng làm mẫu cho cánh điêu khắc tạc nên bức
tượng đồng hun đặt trong các lâu đài cổ miền Tây nước Đức hay Pháp. Cái hình thể ấy, gợi cho người ta hình ảnh một chiến tướng huyền thoại như
Otenloe vừa từ chiến cuộc trở về.

Quyên không xúc động vì điều đó. Dầu là lần đầu tiên cô nhìn thấy vẻ đẹp của cơ thể Kumar. Chiếc áo lấm tấm máu treo trên giá áo làm cô suýt khóc.
Thế mà Kumar vẫn tươi hơn hớn khi nhìn thấy mẹ con cô. Anh nhổm dậy định đón lấy đứa bé, nhưng có lẽ cái cổ đang đau, bị cái đai sắt cố định, khôn
cho anh dễ dàng cử động. Thấy vậy Quyên đặt con cạnh anh.

Đứa trẻ bò trên bụng Kumar. Nó vươn đôi tay nhỏ xíu rờ vào cằm, vào cái cố định cổ. Kumar vuốt tóc nó, cù vào nách nó và anh cười như thể chưa có
tai nạn gì vừa xảy ra. Nụ cười mới tươi làm sao.

Chỉ vậy thôi mà làm cho Quyên nhói đau. Cô chợt nghĩ tới Dũng. Giá như Dũng biết cảm thông và có tấm lòng như Kumar?

Cô nắm lấy bàn tay anh. Chắc Kumar đau lắm. Cô hỏi, Kumar đau đớn ở đâu? Kumar trìu mến mỉn cười nhìn cô và lắc đầu. “Chỉ ngày mai anh khỏe thôi?
Em đừng lo lắng gì!” Kumar nói vậy mà Quyên bỗng khóc. Những giọt lệ chảy lăn xuống rơi đúng bàn tay đen có lòng tay trắng của anh. Kumar khẽ kéo
Quyên vào sát mình. Anh nắm chặt bàn tay Quyên, như muốn không rời, khi tay kia vẫn ôm lấy con cô. “Em đừng khóc nữa!” Kumar chỉ nói được như vậy
rồi im lặng, hết nhìn Quyên lại nhìn đứa bé. Họ im lặng như vậy tới mươi phút.

Chàng trai có làn da đen hơn cả bóng đêm Kumar nắm lấy tay Quyên. Quyên cứ để yên tay mình trong tay anh và trong lòng cô trào lên một tình cảm mà
cô cũng chẳng thể hiểu, đó là tình yêu hay tình thương của cô dành cho anh. Giờ đây, cô cảm thấy cũng đau đớn trên thân xác và những vết thương còn
tươi trên khuôn mặt đã thân thuộc với mẹ con cô. Cô không hiểu rõ, cắt nghĩa được tình cảm của cô đã phải là tình yêu hay chưa khi trong cô sự gắn
kết, chia sẻ, biết ơn ngày một lớn lên để sẵn sàng dành cho anh, sẵn sàng đáp lại tiếng ngân nga đôi lứa, dù chưa rõ ràng, bởi Kumar chưa cất thành
lời dành cho mẹ con cô.

Có lẽ mình yêu Kumar rồi! Cô tự thấy xấu hổ mỉn cười ngượng nghịu, khi nhận ra trong sâu thẳm lòng mình ý nghĩ ấy.

Các bác sĩ và hộ lý bệnh viện đều nghĩ họ là một gia đình. Chắc vì vậy mà họ bàn giao cho Quyên những vật dụng cá nhân tìm thấy trên xe Kumar. Cả
chiếc ví với đủ loại giấy tờ. Cô cầm lấy và hỏi: “Em mang về nhà nhé!” Kumar gật đầu. Đôi mắt anh nhìn vào mắt Quyên, ánh lên niềm vui, đầy tin
cậy, âu yếm.

Kumar vốn có một tố chất phi thường về thể lực. Anh hồi phục sức khỏe rất nhanh và bản thân anh cũng không muốn nằm viện. Anh bảo: “Quyên này, ở
viện buồn lắm!” Nhưng cái chính là anh sợ mẹ con Quyên vất vả, khi ngày nào cũng đùm kéo vào thăm anh, vì vậy mới có năm ngày nằm viện mà anh đã
nằng nặc xin bác sĩ về nhà.

Bệnh viện cũng không thiếu chỗ để tới mức đồng ý cho Kumar xuất viện ngay. Sáng sớm thăm bệnh, bà bác sĩ Lisa tươi cười gật đầu đồng ý phê giấy
xuất viện. Người ta đều thấy rõ khả năng hồi phục phi thường, đầy tố chất thanh xuân trong người thanh niên này. Nhưng Docterin Lisa vẫn kiểm tra
lại sức khỏe anh rất thận trọng. Bà bắt anh phải kiểm tra lại máu, tim mạch, chụp lại xương cổ một lần nữa và, quyết định cho anh về với lời dặn dò
chu đáo và đặt lịch kiểm tra lại sức khỏe.

Phần 11

Hai tuần kế đó nghỉ việc ở nhà với Quyên và Thanh Vân là hai tuần hạnh phúc của cả ba người. Căn hộ luôn tràn gập tiếng cười của bé Vân. Tiếng
Kumar giả làm bò, dê và đôi khi gầm lên như tiếng hổ giữa rừng. Những khi ấy, dù đang làm bếp, Quyên cũng ngó vào nhìn con và Kumar chơi đùa với
nhau và lòng cô thốt reo lên, như có tiếng nhạc đinh đoong, cho cô những giây phút thanh thản, yên lành.

Muốn Kumar hồi phục nhanh hơn, ăn ngon miệng hơn, nhằm bù lại số máu đã mất giữa những bữa ăn đặc Đức giàu đạm, Quyên đi chợ châu Á mua bánh đa,
miến, mộc nhĩ và nấm hương. Cô chế biến hết miến gà lại miến lươn. Cá xốt cà chua và cả món cá chép to nướng nguyên con khi đã ủ kín trong muối
trắng. Cô cũng làm món nem mà Kumar rất thích vào bữa cuối tuần và còn nấu cả món cari cay bỏng mồm theo đúng cách Kumar mô tả. Hôm nấu món ăn của
quê anh, Kumar cứ ra vào bếp ngõ nghiêng, lại cười phá lên khi thấy cô xuýt xoa, thổi phù phù mãi bởi miếng cari cay tê chùn lưỡi khi nếm trộm
trong bếp.

S.bahn của Đức có lẽ là loại tầu sạch sẽ, chạy nhanh và êm thấu nhất châu Âu. Các loại tàu đường sắt của châu Âu có lẽ đều chung một ưu điểm kỳ lạ
ở chỗ, chỉ sau vài giây đầu lăn bánh, đã đạt tốc độ tới hàng trăm cây số giờ. Người ta giải quyết các khâu kỹ thuật làm đường, chống rung, ồn rất
tốt, nên khi tàu chạy đạt tốc độ hơn hai trăm cây số giờ, thậm trí với loại tầu Express Zug, chạy tới xấp xỉ hơn ba trăm, vẫn êm ái như trôi trên
thanh ray, khiến cho trong toa êm và kín tới mức không nghe tiếng va chạm của bánh sắt với đường ray. Có thể đặt một điếu thuốc lá thẳng đứng trên
bàn ăn suốt chuyến đi dài mà điếu thuốc không hề đổ.

Thứ Bảy này, Kumar dẫn Quyên và bé Thanh Vân tới thăm một khu công viên xa thành phố. Họ lên chuyến S.bahn vào sáng sớm và chỉ sau nửa giờ đã tới
ga cần đến. Cũng tại Quyên cứ mải nói chuyện với con gái làm Kumar không nhận ra ga cần xuống đã tới.

Đèn xanh, cửa mở đã ba bốn giây, anh mới nhận ra ga phải xuống khi giật mình nhìn thấy tên ga viết đen sẫm trên tấm biển đặt giữa sân chờ. Xuống
nhanh! Kumar nói gần như quát và bế thốc bé Thanh Vân rời tầu. Anh nhảy ba bước và đặt Thanh Vân xuống sân ga, rồi theo quán tính ngoảnh lại.

Quyên vốn chẳng nhanh nhẹn gì. Cô vừa bước chân ra khỏi tầu thì chuông kêu, đèn đỏ và hai cánh cửa tầu sập ngay lại. Trong chớp mắt, tầu lao đi,
kéo theo Quyên, như nhấc cô lên khỏi mặt đất. Nên nhớ rằng, sân tầu và sân ga có độ cao bằng nhau, nên trong tích tắc ấy, đôi giày của Quyên quệt
sệt trên mặt xi-măng sân ga. Hóa ra,khi bước khỏi tầu, cô ra ngoài ngồi nhưng cái túi cô khoác trên vai vẫn còn mắc lại sau cửa bên trong tàu. Cái
dây đeo túi lại quàng chắc trên vai. Con tàu lập tức kéo theo Quyên đi bằng hai quai túi. Tình huống cực kỳ nguy hiểm, chỉ vài giây nữa, khi con
tàu S.bahn đạt tốc độ hơn trăm cây số giờ, Quyên chắc chắn bị đập tơi tả trên nền xi-măng, nếu nói ngoa là bị mài mòn từ gót tới đầu!

Giây khắc kinh hồn Kumar quay phắt lại, lập tức nhận ra, ý thức toàn bộ hiểm nguy. Kumar không có thời gian tính toán, anh bay người, lao vụt tới
Quyên như một con báo. Anh cố hết sức vọt lên cho kịp con tàu, níu lấy Quyên và phát hiện ra hai quai túi đang căng siết bả vai Quyên. Vung tay
chém mạnh. Cú chém dồn hết cả sức lực của cánh tay cuồn cuộn bắp thịt đen bóng đã được rèn luyện bao năm tháng trong rừng, trên thảo nguyên, trong
lao động và phiêu bạt bao nhiêu năm nay. Trong giây khắc hiểm nguy này, cú chém bỗng có thêm một lực mạnh khủng khiếp, không chỉ là sức cơ bắp của
Kumar, mà của cả sức mạnh của kẻ đang yêu, làm đứt tung hai dây quai túi đeo vai của Quyên.

Con tàu đã đạt tốc độ tới bảy tám chục cây số giờ vẫn cố kéo, theo quán tính, hất cả hai người văng ra tới ba bốn mét làm Kumar loạng choạng, dù
vẫn tỉnh táo ôm chặt lấy Quyên. Cả hai lăn ra sân ga, tránh được cái mép tàu nguy hiểm, có thể néo họ kẹt vào, di nát họ.

Sự việc diễn ra chỉ trong chớp mắt.

Khi thấy mình bị kéo đi trên sân ga, Quyên thoáng thấy bóng con, cô hoàn toàn ý thức được điều nguy hiểm và hoàn toàn bất lực, vô vọng, hoảng hốt
tái xanh mắt níu lấy hình ảnh, tưởng là lần cuối cùng của đứa con. Hai sợi quai túi thật dẻo chắc cứ níu chặt cô với con tàu. Tích tắc ấy, cô không
kịp nghĩ tới cả cái chết, kể cả khi được Kumar giải thoát, nâng dậy, Quyên vẫn chưa khỏi bàng hoàng và bỗng cảm thấy hoàn toàn kiệt sức. Cô cố đứng
thẳng mà chẳng được. Người mềm nhũn, Quyên đổ người vào Kumar, tựa thân vào anh hết sức tự nhiên.

Kumar đỡ lấy cô. Ôm nhẹ lấy Quyên và đôi tay rắn chắc của anh cũng choàng nhẹ lên hai vai cô: “Tất cả qua rồi!” Anh nói.

Mãi cho tới sau này bao lần nghĩ lại, Quyên hoàn toàn hiểu rằng, giây phút Kumar lao ra bám lấy cô đấy, thật cực kì khủng khiếp. Cả hai, Kumar và
cô có thể bị kéo dài trên nền xi-măng sân ga, có thể thân thể họ bị mài mòn và đập lên dập xuống đường đầu tan thây nát thịt. Nó giống cảnh trẻ con
buộc viên gạch vào một sợi dây mà kéo lê trên mặt đất. Kumar tất nhiên phải hiểu điều đó. Vậy mà anh vẫn lao vào, bất chấp cả nguy hiểm lẫn sinh
mạng của anh. Cô nghĩ vậy và trong cô trào lên lòng biết ơn vô hạn.

Họ cứ ôm nhau tới hai ba giây giữa sân ga khi cảnh sát và nhân viên đường sắt rầm rầm chạy tới, rồi dừng lại thở phào nhìn anh tràng da đen đang ôm
cô gái da vàng tóc đen sẫm một cách trìu mến trên sân ga. Chỉ đến khi Thanh Vân lẫm chẫm chạy tới bên họ, Quyên mới sực tỉnh, buông tay khỏi Kumar.
Cô quỳ xuống ôm chặt lấy con:

– Mẹ của con đây!

Họ đi vào nơi công viên.

Suốt cả ngày hôm đó Quyên chỉ là cái bóng thụ động đi theo con và Kumar. Cô suy nghĩ miên man.

Tình yêu là gì? Cái gì đo đếm và xác định độ lớn của nó? Dám liều chết cho cô- điều đó chính là tình cảm lớn lao của Kumar dành cho cô chăng? Liệu
có ai, như chồng cô ngày xưa, dám liều thân như vậy không?

Quyên chợt nhớ tới dòng sông biên giới, những tảng băng nổi chập chờn trên mặt sông êm đềm vượt biên giới và bóng chồng lẩn sau dải rừng đầy băng
tuyết.

Chao ơi, sao buồn thế! Nhưng tại sao Kumar không có biểu hiện gì cụ thể về tình cảm với cô bấy nay. Hay anh chỉ yêu con cô mà tử tế với cô tới vậy.
Rõ ràng cô thấy lòng mình đang thuộc về anh.

Tại sao mình không dám bước qua những lằn ranh mong manh vô hình nhưng vô cùng quen thuộc như lối mòn trong nếp nghĩ bao đời nay của những người
phụ nữ châu Á, chẳng bao giờ dám bày tỏ tình cảm của mình trước? Cô sẽ bày tỏ tình cảm của cô với anh! Cô cần phải hiểu một cách rõ ràng tình cảm
của Kumar, vì cô không không thể chịu đựng mãi cảnh sống cứ mập mờ như hiện tại và cũng vì cô ý thức được, chỉ cần vượt qua lằn ranh bên kia, cô sẽ
nắm được hạnh phúc đang có thể là hiện thực được Kumar che đậy bởi một lí do nào đó mà cô chưa tường.

– Kumar này, anh nói đi!

Mắt Kumar có viên ngọc đen nhấp nhánh:

– Em bảo nói gì bây giờ?

– Anh có yêu em không? – Quyên không hề cúi mặt xuống e thẹn như thủa đôi mươi. Đôi mắt của cô nhìn thẳng vào đôi mắt Kumar chờ đợi.

– Sao em lại hỏi anh như vậy?

Quyên ngần ngừ.

Tại sao cô lại phải hỏi anh? Cô phải hỏi! Cô cần hiểu tình cảm của anh một cách rõ ràng. Người ta vẫn nói, tình yêu là tiếng không lời, không lời,
nhưng vẫn có thể nhìn thấy, nhận ra, thậm trí “cầm lấy nó” qua hành vi thường ngày của cặp trai gái nào đó. ở đây, Kumar chẳng hề bày tỏ hay có
biểu hiện đi xa hơn. Một quan hệ thật là khó hiểu. Dù anh có tốt với mẹ con cô bao nhiêu chăng nữa, Quyên vẫn không muốn tình trạng khó hiểu, mập
mờ này kéo dài, khi mà cô, chứ không ai khác cần câu trả lời để hiểu rằng, anh có yêu cô không?

Kumar yên lặng giây lát. Anh đắm nhìn Quyên trong đêm. Bàn tay anh chợt nắm lấy tay Quyên. Lòng tay anh úp lên mu bàn tay cô. Cử chỉ ấy thật quá
đỗi dịu dàng với Quyên làm cô thấy hạnh phúc. Nhưng điều cô muốn bây giờ không phải chỉ là như vậy. Quyên rụt tay khỏi bàn tay Kumar:

– Không, anh nói đi. Em yêu anh. Anh có yêu em không?.

Nói được câu ấy, Quyên tự thấy nóng rực mặt, chính cô cũng không thể ngờ rằng, lời bày tỏ của cô bật ra tự nhiên tới vậy.

Thực ra, Kumar đã yêu Quyên lâu rồi. Tình yêu vốn dĩ không thể định lượng và khó biết là nó khởi nguồn từ đâu. Từng ngày một, nó, tình yêu của
Kumar như mầm cây nhu nhú trên mặt đất, hít thở độ ẩm, không khí mà lớn dần lên và dần hình thành màu sắc để người ta nhận ra chính xác “hình thù”
của mối quan hệ mà bấy nay anh dành cho Quyên.

Những ngày đi làm về, anh chẳng thấy hạnh phúc vô bờ khi mẹ con Quyên đón cửa đó sao. Có hôm, anh chẳng thấy chống vắng tới vô cùng, vì buổi trưa
trở về không thấy Quyên trong căn hộ đó sao? Song tình cảm của anh lại không hề thể hiện ra bên ngoài như những người đàn ông khác. Bởi có mà điên
mới không yêu một người đẹp như Quyên. Nhiều tháng nay đã bao nhiêu lần anh kín đáo quan sát, cảm nhận về Quyên qua những suy tư, ứng xử, sinh
hoạt… tức là mọi mặt, từ hình thức tới nội dung của phụ nữ, với đầy đủ tính chất “đàn bà”. Điều anh quan sát để cảm nhận và xúc động trước Quyên,
anh dần tìm thấy, phát hiện, khám phá trong sinh hoạt thường nhật và kể cả khi dạo chơi cùng mẹ con Quyên. Với anh, Quyên là một vẻ đẹp hoàn thiện,
cả nội dung và hình thức. Cô tựa như đóa hoa vẫn chúm chím ngậm sương trên cánh đồng tỏa hương. Dầu là trải qua bao biến cố, trong anh, cô vẫn tinh
khiết, dịu dàng. Được sồng bên cô, bất kỳ ai cũng nhận ra. Quyên mềm mại, nữ tính, nhân hậu, luôn là người biết chia sẻ. Tất cả những điều ấy, với
hình thể, dáng đi, khuôn mặt tuyệt diệu, khiến Quyên thực sự tỏa hương, quyến rũ một cách lạ thường. Bản thân anh cũng tự biết phần con người nửa
trong anh cũng thèm khát được một lần ân ái cùng cô. Một vẻ đẹp kỳ diệu mà anh nhận thấy. Nhưng còn trên tất cả vẫn là tình thương của anh với
Quyên, với cả bé Thanh Vân. Điều ấy thật giản đơn, khi mà trong hoàn cảnh tha hương, lang bạt, từng trải như anh, đứng trước một con người yếu
đuối, mảnh mai như Quyên, nhất là khi nghĩ về những gì mất mát chịu đựng mà Quyên đã gặp phải, sao anh có thể dửng dưng, không động lòng thương cảm
để bao bọc cho mẹ con cô. Có lẽ đêm nay anh sẽ nói cho cô rõ, vì sao anh phải giấu kín những tình cảm của anh khi anh là người biết yêu tha thiết
và trân trọng những gì anh nhận thấy ở cô gái châu Á này. Anh sẽ bắt đầu thế nào bây giờ, bởi nếu nói ra sự thật ấy, khi Quyên không một ngày sống
ở quê hương anh, liệu cô có hiểu cho anh không, hay là cô có thể nghĩ rằng, anh chỉ là một kẻ hoang toàng như trăm ngàn người đàn ông khác. Kumar
lại nắm lấy một bàn tay Quyên. Bàn tay phải của anh, bàn tay có màu chẳng khác gì nước da châu Á, vuốt nhẹ lên mu bàn tay cô:

– Cái xứ anh không như ở đây. Xin hãy tin anh! Đầu thế kỷ 19 bộ tộc anh có một người kết hôn với một phụ nữ người Anh chuyên cung cấp hàng hóa tại
thương cảng Silavattrai. Sri Lanka và India khi ấy có nhiều toán quân đã cùng nhau chống lại ách đô hộ của người Anh. Chính kẻ lấy vợ người anh đã
dẫn đường cho quân xâm lược Anh tiến vào dải rừng Anura và tiêu diệt nhóm quân địa phương. Những người còn lại của dòng họ, đã báo thù bằng cách
đột nhập vào thành phố, bắt sống kẻ phản bội, giải vào cánh rừng Anura và chặt đầu gã làm lễ tế các vong linh bị quân Anh tàn sát trong căn cứ. Từ
đó, dòng họ Sinnatuerrai không được phép lấy người nước ngoài.

Kumar ngồi dậy, anh xoay người rồi ôm lấy hai bả vai Quyên, kéo cô ngồi lên. Đôi mắt Kumar như hai đốm lửa sáng rọi vào đôi mắt đen thăm thẳm của
Quyên:

– Anh yêu em, yêu cả Thanh Vân của chúng ta. Nhưng anh không thể lấy em mà giấu giếm mẹ anh. Anh đang tìm cách đưa mẹ anh tới nước Anh và bay sang
đây. Không thể giải thích mọi điều qua thư từ điện thoại. Mẹ anh là một người tuyệt vời. Ở hoàn cảnh này chỉ có bà mới có thể quyết định chúng ta
có lấy nhau được không.

– Như vậy, chúng ta chỉ yêu nhau mà không bao giờ nên vợ nên chồng ư? – Quyên nói.

– Không! Anh yêu em. Anh cũng rất yêu Thanh Vân, dù nó không phải là con đẻ nhưng bấy nay nó đã là máu thịt gắn bó với đời sống của anh ngày lại
ngày. Nhưng phải chờ mẹ anh sang đã. Chỉ có mẹ anh mới có thể rũ bỏ lời nguyền ấy, khi bà biết, chúng ta yêu nhau chứ không phải âm mưu để chống
lại dòng tộc Sinnatuerrai.

– Em tin anh. Nhưng làm thế nào để mẹ anh có thể cho phép anh như vậy?

– Anh sẽ kể cho bà ấy hiểu em. Mẹ anh là người rất thương yêu anh. Bà nhân hậu. Anh tin là bà cho phép. – Kumar nói rồi kéo Quyên vào lòng anh.

Quyên ngước lên nhìn vào đôi mắt Kumar.

Bấy giờ đang là tiết thu. Những đêm thu bao giờ cũng ngắn hơn đêm đông và bầu trờ khi đó tím sẫm lại. Trên cái nền tím sẫm cong cong thăm thẳm ấy,
chi chít những ngôi sao tỏa sáng, hệt ức vạn viên kim cương lấp lánh.

Rồi chăng.

Chiếc đĩa bạc khổng lồ, tròn vành vạnh xuất hiện từ dải rừng xa, dần dần nổi lên, trôi chầm chậm giữa những áng mây tơ, để rồi tất cả những cánh
rừng, những con sông, phố phường, thảo nguyên… tràn ngập thứ ánh sáng bàng bạc, lung linh. Vạn vật dưới mặt đất trở nên huyền diệu tới không ngờ.

Trăng cứ thế trôi dần, trôi dần, lướt trên tàn cây trước nhà, rồi như neo lại giữa cửa sổ rộng như khói lùa vào nhà, như ai đó vừa trải thêm một
tấm lụa mỏng lên sàn nhà. Căn phòng có hai kẻ tha hương chợt hừng lên. Trong tích tắc, họ bỗng quên hết dĩ vãng, quên cả thực tại trước đó còn đầy
trăn trở, lo âu, phiền muộn.

– Trăng kìa! – Không biết Quyên nói hay Kumar nói.

Cô ngẩng mặt lên. Quyên nhìn thẳng vào đôi mắt của Kumar.

Đôi mắt vốn rất đẹp của Quyên giờ đây đựng đầy trăng, trở lên lung linh khác thường. Kumar nhìn vào đôi mắt ấy. Mắt nhìn mắt.

Kumar rùng mình. Anh bỗng rưng rơi thẳng vào một trạng thái thật kỳ lạ, tuyệt diệu… hệt như có sức mạnh vô hình nào đó kéo căng từng tế bào trong
anh. Anh hồi hộp, nhịp tim bỗng đập nhanh, mạnh khác thường.

Quyên bấy giờ cũng thấy xốn xang kì là, bởi cảnh trăng đẹp vô ngần đang rạng rỡ, hay điều gì đó không thể hiểu nổi đang dâng tràn, thấm đẫm cất lên
trong tâm hồn cô đêm nay. Quyên đã lớn lên nhiều. Tại sao cuộc sống cứ phải lệ thuộc và thụ động chờ đón hạnh phúc từ phái mạnh? Cô là một cá thể,
có điều gì xấu xa khi con người ta bày tỏ tình yêu của mình, hay là chính con người ta bày đặt ra những điều vớ vẩn từ định kiến, hoặc sự tự mặc
cảm thân phận phái yếu lệ thuộc, thụ động đã đẻ ra ước lệ, để can chịu một cách giả dối, nhố nhăng, khiến người ta không dám bộc lộ khát vọng, vốn
tự nhiên, cần thiết của mỗi con người? Không! cô đang muốn yêu! Cô khao khát tình yêu của người đàn ông này. Anh ấy là Kumar và đang sát bên cô.

Rất tự tin ở tấm lòng của mình, Quyên rướn lên, tin cậy níu lấn Kumar, gắn đôi môi hôi hổi, tha thiết của cô lên đôi môi người cô đang muốn yêu.

Kumar bàng hoàng.

Đời anh chưa một lần nếm hương vị của ái tình. Nụ hôn rất chậm nhưng vô cùng nồng nàn cho anh cảm thấy rõ sự thắm thiết chân thành của người đàn bà
xinh đẹp là Quyên. Sức nóng của cặp môi mọng cũng truyền cho anh rất rõ ràng. Một thông điệp vô cùng mãnh liệt của ái tình và, lập tức nụ hôn ấy
châm lửa, để thứ dễ cháy trong mỗi người đàn ông, bản năng yêu tiềm ẩn ở người đàn ông đầy sinh lực như anh bùng cháy!

Anh cảm nhận lập tức mùi hương kì lạ ở mũi, ở miệng, ở khắp đâu đó của người đàn bà tên Quyên. Đôi mắt của Quyên khi ấy tràn ngập ánh trăng, bừng
lên thứ ánh sáng vô cùng đắm đuối, đủ nói lên tất cả tấm lòng, sự khao khát muốn dâng hiến tới tận cùng. Toàn bộ cơ thể Kumar rung lên dữ dội.

Tình yêu có sự cộng hưởng như con lắc đơn không? Trường hợp của Quyên và anh đêm nay, khi mà cả hai trái tim dao động cùng chiều thì chính điểm
giao thoa thân xác ban đầu đã cho cả hai, chớp mắt thành một nhịp dao động với biên độ lớn nhất.

Anh quàng đôi cánh tay mạnh mẽ và rắn chắc ngang tấm thân mềm ấm của Quyên, ghì chặt thân hình bao nhiêu sức hút đang ấp chặt áp sát vào tấm thân
cường tráng của anh. Cánh tay mềm của Quyên cũng choàng siết lấy anh. Hai bàn tay cô bấu vào cơ thể Kumar. Thân thể của hai người yêu nhau khi ấy
tự nhiên biến thành một khối, cho họ cảm giác, khát khao muốn chan hòa vào nhau, tan hòa vào ánh trăng, để chẳng thể sức mạnh ngoại lai nào chia
tác được họ…

Họ có một đêm đầu tiên, ngập tràn hạnh phúc của những kẻ yêu nhau tới vô cùng trong sự chứng kiến của bầu trời, của muôn vàn tinh tú và, của trăng
thu, bấy giờ tựa chiếc gương bạc lớn, tròn vành vạnh, neo bồng bềnh ngang trời, vằng vặc soi…

Phần 12

Sắp tới Noel, tiệm Pizza của Kumar đột ngột đóng cửa. Ông chủ tiệm, lão Toni đã uống rượu khuya, tận say, rồi lại đi tắm, không may bị phải gió,
hình như đứt mạch máu não. Lão đột tử.Vợ lão, bà Riona không thể điều hành tiệm đã sang phắt tiệm cho một người Thổ chuyên bán món bánh Doenerkebap
bánh mỳ truyền thống. Doenerkebap là loại bánh mỳ truyền thống của người Thổ, giữa kẹp thịt cừu nướng. Nó có mùi vị đặc biệt thơm, bởi hương liệu
ướp thịt được gia tẩm, chế biến rất cầu kì, đầy bí quyết.

Kumar không thể đứng bán bánh tại cửa hàng, vì công việc ấy chẳng dễ dàng gì khi người bán loại bánh mì này phải biết sử dụng con dao dài gần một
mét, lia nghiêng, cắt chéo như múa trên cây thịt đứng, cho những lát thịt đã chín mỏng tang rơi lả tả xuống khay trong khi xóc thịt cứ quay tròn,
tiếp tục cho giàn lửa đốt rộm chín phần hồng vừa lộ ra sau nhát cắt. Động tác của kẻ đứng bán nhanh thoăn thoắt, quá quen với từng thao tác, bởi vì
họ, những người Thổ đã bao đời bán loại bánh rất riêng, độc nhất vô nhị trên thế giới.

Cửa hàng cũng chẳng cần người chạy xe đưa bánh đêm. Doenerkebap tuy có kẹp nhiều cải bắp, thái nhỏ như miến, sống, giòn tươi, giàu vitamin, nhưng
thịt cừu nướng vốn lắm đạm và béo, gây khó tiêu, cho những chén mà lại không hoạt động, nằm dài, nghển cổ trên sa-lon mà dòm tivi. Những người Đức
ăn uống rất kiêng cữ, tính toán chi ly, mấy ai cứ đêm khuya lại thích ăn thứ bánh có kẹp hơn lạng thịt khó tiêu này! Nó có thể gây đầy bụng hay béo
phì.

Chính vì thế, tay người Thổ, chủ tiệm mới không cần tới Kumar nữa.

Kumar báo tin ấy cho Quyên ngay vào ngày anh bị sa thải. Nhưng anh không có biểu hiện buồn bã khi đáp lại câu hỏi của Quyên trong bữa ăn tối, quanh
việc thất nghiệp. Dường như ở anh, quá trình sống ở Đức đã dạy cho anh hiểu, phải biết sống, sẵn sàng chấp nhận sự bếp bênh của thị trường lao động
mà những kẻ như Kumar chỉ là công dân hạng ba .Nhất là việc đưa bánh, nặn bột, hoặc đứng bán bàn trong các quán ăn nhanh đều là loại lao động phổ
thông, công việc đơn giản, rất dễ thay thế, thì sự mất việc phải chấp nhận như một lẽ thường tình. Có lần, một Angerstrlerin của Sở Lao động thành
phố chẳng đã nói với anh rằng, ở Đức với hơn 5 triệu người thất nghiệp thì người lao động nào đã trên 35 tuổi đều được coi là già. Năm nay Kumar đã
ba tám tuổi. “Anh già rồi. Ốm tha già thải!” Kumar vẫn có thể nói đùa như vậy với Quyên trong bữa ăn tối ấy, sau đó anh vẫn xắn tay áo lên, co bắp
tay lại, co bắp tay lại, cho Thanh Vân nghịc sờ vào con chuột nổi cuộn, rắn cưng.

Nhưng Quyên biết, người lao động ở xứ này đều coi thất nghiệp là một tai họa. Không có việc làm, có nghĩa là không có tiền. Bởi vì số tiền trợ cấp
thất nghiệp của những lao động đơn giản chi nhằm đủ sống, dư dật dăm đồng một tháng thì chả đáng là bao. Khi thất nghiệp, người ta chẳng có một cơ
hội nào dư tiền để đi du lịch và các nhu cầu giải trí cũng sẽ hoàn toàn bị hạn chế. Sống không đi đâu đó, không vui chơi giải trí, quẩn quanh với
một thời gian biểu diễn đều tăm tắp, ngày tiếp ngày lặp lại như khuôn đúc, tức là cuộc sống vô cùng nhàm chán, buồn tẻ. Và, đối với những người ưa
hoạt động, còn sung mãn như Kumar, hẳn đó là sự “ăn không, ngồi rồi”, và chính là sự nhàn nhã ấy khác gì sự tra tấn âm thầm từng ngày mà Kumar cảm
thấy. Hơn nữa, hàng ngày Kumar còn phải gửi tiền về cho mẹ. Anh sẽ tìm đâu ra khoản chi ấy, khi việc chi dùng cho Thanh Vân, nếu chỉ dựa vào trợ
cấp của xã hội, Quyên cũng phải hết sức dè sẻn.

“Đã tới lúc mình phải tìm một việc nào đó mà làm thôi, dù có phải làm chui, làm lủi hay công việc chả ra sao ở cái xứ hiếm hoi việc làm chính thức
này” – Quyên nghĩ ngay điều ấy khi biết tin Kumar thất nghiệp. Con người ta phải hiểu tình thế, phải biết thân, biết phận và không được lạm dụng,
nương tựa thái quá, kể cả đối với bạn bè và người tốt bụng như Kumar, cho dù anh luôn thương Thanh Vân và cũng luôn luôn không muốn cô vất vả.

Tháng Noel, Quyên xin được một chân phụ giúp bán bánh tại tiệm bà Muzac. Công việc hơn ba giờ đồng hồ mang về cho cô hai mươi Euro mỗi ngày. Số
tiền không đáng là bao, nhưng tích góp lại, dần từng ngày thành tấm, thành món, làm anh thật vui. Tháng đầu có tiền, cô mua một đôi tất dài cho
Thanh Vân, mua cho Kumar một đôi quần lót và một chiếc áo sơ-mi trắng, một chiếc khăn Ả Rập. Chiếc khăn vải hình ca-rô đen trắng tương phản rất to,
làm từ sợi bông gai mềm mại, quấn cổ những ngày gió tuyết rất ấm ngực. “Nom anh giống như chiến binh của ông Araphat”, Quyên cười nói khi quàng
chiếc khăn lên vai Kumar.

Nhưng công việc của Quyên cũng không kéo dài quá mùa xuân năm sau.

Gần nửa tháng tiếp đó, cả hai người lại không có việc làm. Dù yêu nhau tới mấy, Quyên tự cảm thấy cuộc sống hàng ngày cứ lặp đi lặp lại vô cùng tẻ
nhạt. Quyên hay đẩy con đi chơi cho khuây khỏa, đi lại nhẵn chân trên từng ngõ ngách… đến nỗi cả thành phố rộng lớn như thế mà nơi nào cũng trở
nên quá quen thuộc.

Kumar hầu như thấu hiểu hết mọi suy nghĩ của Quyên. Anh thường lựa lời an ủi cô những ngày cô buồn. Anh nói rằng, rồi cả hai sẽ có việc làm. Phải
kiên nhẫn. Anh còn bảo như một hiền triết, rằng người ta chẳng bao giờ buồn mãi, và cô quạnh mãi. Có hôm còn ví von một câu mà Quyên không ngờ, y
như một người Việt già từng trải và am hiểu: “qua cơn bi kịch tới ngày thái lai”. Có những ngày mưa lê thê hay tuyết tràn ngập, Kumar ngồi bên
Quyên suốt, hết sức kiên nhẫn, lắng nghe cô kể về quê hương, nỗi nhớ tràn ngập trong cô về thành phố, con đường, cơn mưa và ngôi nhà. Có nghĩa là,
bất cứ điều gì ở cô trăn trở, lo âu hay phiền muộn đều có thể nói cho anh. Khi ấy, Kumar ngồi bên Quyên, nắm chặt lấy bàn tay cô trong lòng đôi bàn
tay ấm áp mà lòng tay lại vàng, chẳng đen kịt như nước da của anh.

Thời gian cứ thế trôi đi như thế, trong một nhịp sống có nhiều khi tĩnh lặng, trên một căn hộ không rộng quá, làm cho Quyên có điều kiện quan sát,
suy nghĩ, thậm trí so sánh Kumar với dăm người đàn ông khác để nhận rõ anh càng sâu sắc hơn. Cô chẳng còn ở cái tuổi để mà yêu hờn, yêu dỗi nữa. Cô
cũng không phải là hạng người sau những sự cố đau đớn, khủng khiếp với giới đàn ông trong tình ái, trở nên mất hết niềm tin và hy vọng về tình yêu
và hạnh phúc, để hoàn toàn thất vọng, coi đàn ông đơn thuần là giống đực, nhằm vào đó sự trả thù hoặc những sự mua bán, đổi chác, chỉ đơn thuần có
lợi về vật chất. Ngay cả trong điều bất hạnh xảy ra với Hùng ở biên giới. Đôi khi phải nhớ lại vì một duyên cớ nào đó, cô vẫn giữ lại phần tử tế và
tốt đẹp, nhất là trong thời gian cuối, khi cô có thai. Khi thật yên tĩnh, nhìn lại dĩ vãng, cô phân tích, nhận rõ từng nét khác biệt trong tình yêu
của từng người đàn ông đã dành cho cô. Với Dũng chỉ là một tình yêu vị kỷ; ở Hùng, thứ tình yêu đầy bản năng; ở Phi, một thứ tình cảm không hội đủ
bản chất đàn ông để hòa nhịp với tâm hồn của cô. Thứ tình cảm của anh ta định dành cho cô, cũng chỉ là nhu cầu bản năng bình thường, mong cầu một
gia đình mà thôi.

Giờ đây, Quyên chẳng còn là Quyên của hôm qua, không phải là tuýp phụ nữ chỉ cần một người đàn ông, một tấm chồng. Cô không chỉ mong, chỉ ở tư cách
làm vợ, sinh con, kể cả yêu cô biết mấy. Cô đã quá đau khổ, đã nếm trải, đã trở thành tuýp đàn bà không giản đơn và thụ động. Sự hy vọng không bao
giờ chết đi, cô khao khát, đòi hỏi người đàn ông của cô đầy đủ phẩm chất, những tiêu chuẩn của riêng cô. Phải đến với cô, trước hết một tình yêu
bản năng, nguyên sơ, mãnh liệt nhất của phái mạnh. Đấy là điều đầu tiên và cần thiết. Nhưng điều đầu tiên ấy vẫn chưa đủ để cho cô một tình yêu mãn
nguyện. Cô nhận ra từ những thất bại và không may mắn của mình, rằng một người đàn ông chỉ bản năng yêu, dù cũng mãnh liệt tới mấy, không có thể
gìn giữ, nuôi nấng một tình yêu bền vững mãi với thời gian. Sự gắn kết của hai tâm hồn, nhất là với cô, người đàn bà có dĩ vãng và tâm hồn chẳng hề
giản đơn, còn cần ở tâm hồn con người khác giới kia, phải là một sự hiểu biết, từng trải, để có thể hiểu cô, chia sẻ và bao dung, trân trọng và
thông cảm. Một tình yêu bản năng thôi, sao mà đủ sức mà gánh chịu một tâm hồn nhạy cảm dễ tổn thương như cô. Vâng cô nhận ra những vẻ đẹp, dù sắc
nước, hương trời tới mấy, đều trở nên nhàm trán, khi con người ta quá quen thuộc với nó và , khi đó, khái niệm trung thủy trở nên phù phiễm và vô
nghĩa.

Những suy cảm ấy cứ xoáy cuộn, chất chứa trong cô. Cô nhận ra, Kumar là người đàn ông có đầy đủ phẩm chất mà cô đòi hỏi mong chờ.

Suy nghĩ như vậy, Quyên cảm thấy yêu sống hơn, cảm giác buồn chán không phải là mất đi, mà cô đã được người bạn, người cô yêu – Kumar , cầm tay
cùng đi, bên nhau vượt qua nó.

Tất nhiên Kumar cũng chịu khó lân la khắp nơi xin việc. Thành phố hơn hai mươi ngàn kẻ thất nghiệp và anh chỉ là con số lẻ đứng xếp hàng tận phía
dưới.

Thời gian vùn vụt trôi. Rồi Kumar cũng xin được việc, dù chỉ là ba tháng trong một xưởng chế biến thịt nguội. Hàng ngày, anh xẻ vài tấn thịt lợn và
bò các loại. Anh xay chúng nhỏ ra tùy theo việc chế biến các món ăn nguội cho xưởng. Công việc không tới nỗi nào và đang quen dần thì lại mất việc.
Giá cả leo thang từng tuần, đồng bạc mất giá sau khi đổi tiền từ đồng D.mark sang Euro, và nạn thất nghiệp vẫn ở con số năm triệu người khiến cho
việc tiêu thụ cũng chững lại. Người ta, những người đàn bà đi chợ búa, cơm nước đắn đo hơn, trước khi cầm một miếng xúc-xích hay giăm-bông đóng gói
bỏ vào làn.

Sau khi thôi việc ở xưởng chế biến thịt nguội một tuần, thật may sau khi đọc báo, Kumar tìm ngay được chân phụ bếp trong một tiệm ăn của người
Trung Hoa.

Công việc phụ bếp đơn giản nhưng thật tồi tệ. Anh phải tới quán ăn rất sớm để phụ giúp chuẩn bị dụng cụ xoong chảo và rời quán sau cùng, khi đã làm
sạch tất cả dụng cụ, bát đĩa cho ngày bán hàng hôm sau. Những bữa vào ngày nghỉ, buổi tối thực khách đông nườm nượp. Hơn mười bốn tiếng lao động
một ngày. Mãi về sau này, mỗi khi đưa qua bất cứ một quán Tầu nào, anh vẫn không khỏi rùng mình. Anh lập tức nhớ lại cả quá trình lao động trong
quán Tầu, từ cái biển hiệu màu đỏ chói lọi, thếp vàng kia. Sự nhớ từa tựa như khi người ta chợt nhìn thấy máu mà hồi tưởng tới chiến cuộc.

Kumar có lần kể với Quyên rằng, không thể tưởng tượng được khi đứng trước đống bát đĩa và dao, thìa, dĩa cao như núi, mà bất kỳ người phụ việc nào
cũng phải cố tìm cách thao tác sao cho kịp với cả dây chuyền, từ khâu chuẩn bị và nấu nướng, tới việc bưng bê rồi dọn bàn cho khách. Anh kể, rửa
thìa dĩa khó sạch, vì mỡ và thức ăn thừa luôn nhằng nhằng bám chặt các khe kẽ, cho dù nước rửa có đậm đặc chất tẩy bẩn tới làm bỏng tuột cả da tay.
Sau này, anh nói, động tác phải thành thục tới mức, chỉ cần đưa tay nhấc thìa hay dĩa lên khỏi mặt chậu nước rửa, nó đã phải sạch, hết cáu bẩn và
thức ăn dính vào, rồi phóng nó như ném phi tiêu một cách chính xác vào khay đựng cho ráo nước. Động tác như làm xiếc! Cái thìa, dao, dĩa chỉ cần
tuốt một nhát bằng khăn mềm, rồi lập tức rút tuột khỏi khăn đã vút đi, chính xác không sai một ly, từng loại rơi chúng vào các ô đựng riêng biệt.
Có như thế mới kịp cho cả một quán đông tới hàng vài trăm người mà thực khách lại rất khó tính, không thể chấp nhận một vệt chân tay trên một cái
thìa, con dao ăn, hay một cái ly uống trong văn vắt.

Anh trở về nhà lúc nửa đêm khi thân thể đã rã rời. Quyên cũng nhận ra, bàn tay anh vì vầy quá nhiều trong nước rửa, nên từng mảnh da tróc ra. Cô
mua cho anh những lọ kem dưỡng da hảo hạng nhất mà vẫn không chặn được sự hủy hoại của nước tẩy đậm đặc. Nhưng cũng chính thời gian phụ bếp tại
đây, Kumar lóe lên ý nghĩ, tại sao anh không thể làm một ông chủ nhỏ, mở một quán ăn nhanh trong thành phố thoát khỏi tư cách người làm thuê bấp
bênh.

Sớm hôm sau, trong bữa sáng, Kumar nói ý nghĩ ấy của mình cho Quyên nghe. Mắt Quyên sáng bừng lên khi nghe tỏ câu chuyện. Nhưng lấy đâu ra số tiền
khoảng ba chục ngàn Euro mà mở quán bây giờ? Hóa ra mọi ý tưởng tốt đẹp, đầy hy vọng, vẫn phải dựa trên nền tảng: đồng tiền. Thế mà tổng cộng toàn
bộ số tiền họ có cũng chỉ vẻn vẹn chưa đầy chục ngàn Euro. Chừng nấy tiền có được, mà muốn mở quán? – Đó chỉ là một ước mơ xa vời.

– Chúng ta phải tiết kiệm để có tiền mở quán. – Kumar đập tay xuống bàn nói với Quyên tối hôm ấy.

Thời gian vẫn như con thoi, hết xuân tới hè rồi sang thu. Thấm thoát mùa đông lại về. Những đợt tuyết, băng chẳng mong đợi từ biển Bắc tràn vào lục
địa, làm đất đai khô đi, cứng đanh và mọi vật cứ teo tóp, hanh hao dần, rồi chính thức mùa đông lại về, phủ lên toàn thành phố một màu trắng xóa.

Thanh Vân cũng đã lớn. Để có thời gian rảnh rỗi mà kiếm bất cứ việc gì làm thêm. Quyên bàn với Kumar gửi nó tới nhà trẻ. Cứ ba giờ chiều, không có
Quyên thì Kumar tới đón Thanh Vân. Phải xa con như vậy, Quyên xót xa lắm, nhưng Kumar lại hoàn toàn khẳng định rằng, trẻ con nếu sống ở nhà trẻ,
người mẹ hoàn toàn yên tâm và đứa trẻ sẽ được dạy dỗ một cách cẩn thận hơn. Hơn nữa, Kumar nói, phải cho nó tới nhà trẻ, ở đó nó được học tiếng Đức
cơ bản một cách cẩn thận và nhanh chóng nhất. Quyên cũng không an tâm mấy, mặc dù được Kumar chấn an, phân tích như vậy.

Cô thường tới rất sớm có đủ thời gian để ngắm nhìn bé Thanh Vân của cô sống như thế nào. Chỉ hai tuần quan sát con, Quyên mới hoàn toàn yên tâm và
công nhận quyết định của họ là đúng. Thanh Vân chơi với trẻ Đức. Quyên nhận ra nhà trẻ với con cô, thứ không khí mà tại bất kỳ gia đình người Việt
nào cũng chẳng thể mang lại được, dù cho là gia đình có yêu thương trẻ tới mấy, khi trong nhà chỉ toàn người lớn, con trẻ chẳng thể chơi theo kiểu
riêng theo thế giới của chúng. “Việc chăm lo thật là tuyệt hảo. Hai cô giáo chăm sóc có mấy đứa bé. Họ dạy cho nó nói đúng ngữ điệu tiếng Đức. Và
quan trọng nhất họ dạy cho con lòng từ tin khi chơi, khi ăn và cả khi vệ sinh bằng phương pháp sư phạm đầy tin yêu và bài bản”. Cô nói với Kumar
như vậy.

Nhờ việc cho Thanh Vân đi nhà trẻ, Kumar và Quyên có nhiều thời gian rỗi. Họ bắt đầu như đôi ong cần cù, thu va hà vén, vừa chăm sóc Thanh Vân, vừa
nhặt từng đồng bạc kiếm được trong các vụ thu hoạch sản vật nông nghiệp, như thu măng tây, hái dâu và hái táo… ở các vùng quanh thành phố. Hết
mùa thu hoạch họ lại chịu khó tìm đọc báo, nhận việc vệ sinh hành lang hay lau dọn, giặt giũ cho những người Đức, những người già tàn tật cần trợ
giúp trong vài buổi, để có thể vài chục tới trăm Euro bỏ dần vào tài khoản tiết kiệm.

Trước Noel dăm hôm Quyên thấy bồn chồn lạ. Cô có cảm giác ai đó đang nhắc tới mình. Tối thứ bảy, Quyên đón Thanh Vân về nhà, rồi đi chợ mua đồ ăn
thức uống cho hai ngày nghỉ. Cô dặn Kumar ở nhà đặt nồi cơm điện và giặt đống quần áo cả tuần đầy ngồn ngộn hai thùng.

Kumar vừa nấu xong cơm thì có tiếng chuông gọi cửa. Anh cứ đinh ninh Quyên đi mua thức ăn cho hai ngày nghỉ đã về, nên cũng chẳng nhắc phôn hỏi ai
gọi chuông, cứ bấm nút cho cửa bật ra. Dăm phút sau, Kumar thật ngỡ ngàng, bàng hoàng, khi nhận ra Phi đứng trước cửa nhà vừa mở.

Phi, đúng là Phi, chứ không ai khác: “Có lẽ anh ta đã mãn hạn tù”- Kumar thoáng nghĩ.

Cửa bật mở. Nhìn thấy người đón mình không phải là Quyên, Phi lúng túng giây lát.

Suốt ba tuần vừa ra khỏi tù đã đi khắp nơi tìm Quyên. Những người ở trại tị nạn có mách rằng, Quyên đang ở đâu đó trong thành phố này với gã Sri
Lanka nào đấy, gã cũng chẳng tin. Gã dò hỏi khắp các tiệm bánh, quần nát cả thành phố tìm mẹ con Quyên. Cuối cùng, thật vô tình, một người đưa báo
có mách rằng, ở thành phố Anne Frank có một gia đình, người chồng gia đen, còn người vợ và đứa con là người châu á. Gã thuê xe taxi chạy thẳng tới
đây.

– Anh đã trải qua gần sáu trăm ngày trong tù. Một người đã ở tù, ít nhiều hiểu sự tự do trong đời sống con người quý hiếm như thế nào. Anh đi tìm
em mãi suốt hai tháng nay, vì anh rất yêu em, muốn lấy em làm vợ. Em hãy tin anh anh. – Đôi mắt của Phi đầy xúc động, không nhìn thẳng vào mắt
Quyên, khi họ ngồi đối diện bên nhau. – Không ngày nào trong tù mà anh không nghĩ tới em, trong mơ cũng thấy em. Anh ra tù. Việc đầu tiên anh nghĩ
tới là đi tìm em. Anh bây giờ hoàn toàn tự do và đầy đủ điều kiện để đảm bảo cuộc sống cho một gia đình. Cả em và con không phải lo lắng gì cả. –
Phi định nói gì đó nữa, bỗng nhiên im bặt. Đôi mắt gã tha thiết đắm nhìn Quyên như cầu khẩn, van lơn.

– Quyên, anh yêu em! – Gã thốt lên.

Quyên không đủ sức nghe lời gã. Trước mắt cô là Phi. Tai cô nghe rõ từng lời của anh ta. Những lời nói của Phi, cô tin rằng nó không giả dối. Nó là
tiếng kêu não ruột, chân thành và thẳng đuột cất lên từ đáy lòng của người đau khổ. Cô nhìn ra ban-công.

Tiếng Thanh Vân gọi “papa” từ phòng bên vọng sang. Cô biết, Kumar đang chơi với Thanh Vân. Chính Kumar đã gọi điện cho cô về. Cũng chính anh đã chủ
động để cô và Phi nói chuyện riêng. Chắc nhìn vẻ mặt căng thẳng của Phi nói chuyện riêng. Chắc nhìn vẻ mặt căng thẳng của Phi khi anh ta ngồi chờ
cô, hình như Kumar đã đoán được vì sao anh ta lại tới đây. Cô tưởng tượng Kumar đang chống hai tay xuống đất, bò lổm ngổm làm ngựa cho Thanh Vân
cưỡi. Tiếng bé Vân khanh khách cười và tiếng Kumar giả làm ngựa hí vang lên.

Cô tin ở lời Phi nói. Hai năm trong tù, giờ nom Phi có vẻ già giặn đi nhiều. Đôi mắt anh mệt mỏi, đuôi mắt đầy những nếp nhăn. Cô thoáng nhớ lại
cảnh cảnh cái đêm ấy, hôm tại quán của Phi và rùng mình. Cô không yêu Phi, không một lần yêu anh. Không yêu anh thì không thể là vợ chồng, dù mỗi
khi nghĩ tới anh và hiện tại cô vẫn thấy thương Phi vô cùng. Cũng là cảnh xa quê cả, lại chung một đêm như thế, một đêm mà dù có chết cô cũng không
bao giờ quên được. Thực ra hậu quả của việc Phi mang án, cũng xuất phát từ tình yêu gã dành cho cô. Sự hy sinh tới dũng cảm không ngờ khiến Phi
trỗi dậy giải thoát cho cô đêm ấy, kể cả việc ban đầu anh tự nhận tất cả tội lỗi và không khai ra cô, tránh cho cô khỏi bị phiền lụy. Cuộc đời oái
oăm thế, cô yêu người chồng cũ, thì chồng không thể che chở, khoan dung cho cô. Cô không yêu Phi mà anh ta chung tình tới thế. Nhưng giờ đây, cô đã
có Kumar với bé Thanh Vân, khi Kumar đã hoàn toàn choán trọn trong trái tim cô, điều rõ như ngày ấy làm Quyên lúng túng. Sự lúng túng không phải là
băn khoăn chọn lựa giữa Kumar và Phi, mà chỉ là việc trả lời Phi sao bây giờ anh khỏi tổn thương mà vẫn không lừa dối anh?

– Anh Phi này. Tới giờ ăn rồi. Em dọn cơm và anh cùng ăn với gia đình em nhé.

– Gia đình nào? Phi rướn lên.

– Thì anh thấy đấy. Kumar là chồng em! – Cô nói dối và tự thấy nóng mặt. Quyên cúi mặt xuống.

– Kumar đã là chồng em? Không, tôi không thể tin. Ngày xưa, cô sợ anh ta lắm cơ mà. Cô đã chứng kể…

Quyên xua tay. Cô nhìn sang phòng bên: “Chuyện dài lắm. Ngày xưa khác anh ạ. Kumar là ân nhân mãi mãi của em và Thanh Vân. Xin anh hiểu cho!”.
Quyên ngập ngừng một lát, rồi nhìn thẳng vào Phi nói: “Anh phi, em biết là anh yêu em thật lòng. Nhưng như anh biết đấy, câu chuyện của chúng ta đã
để cho em một vết thương khá lớn. Đôi khi nghĩ lại, em vẫn chưa hết bàng hoàng. Người ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông. Nữa là, hiện
nay, em đã có Kumar . Bây giờ dù thế nào ba người chúng em không thể chia tách được, xin anh hãy hiểu cho!”

Phi ngồi như câm lặng tới dăm phút, rồi gã đứng dậy. Đôi mắt gã khi ấy buồn thật buồn. “Thế là rõ cả rồi! Tôi thật là bát hạnh”. Gã xô ghế đứng
dậy, nhìn quanh nhà một lượt rồi đăm đăm nhìn Quyên. Có lẽ phải tới dăm bảy phút sau, Phi mới cất lên lời. Quả thật, trong lòng gã khi ấy thật đau
đớn. Có lẽ đời không còn từ nào có thể tả hết nỗi đau của một kẻ như Phi trong giờ phút ấy. Gã nói:

– Tôi thật không ngờ. Tôi chẳng thể nói thế nào cho em hiểu lòng tôi bây giờ. Thôi, tôi cầu cho em hạnh phúc mãi mãi!

Phi đứng dậy, chầm chậm đi ra khỏi nhà. Quyên cũng đứng dậy: “Anh Phi, anh không ở lại xơi cơm với mẹ con em một bữa cơm?”. Nói vậy nhưng trong
lòng Quyên khi đó thật sự không muốn giữ Phi ở lại. Quyên bước theo, tiễn chân Phi ra tận cửa dưới tầng một.

Bữa cơm tối ấy diễn ra như thường nhật, nhưng dường như Quyên và Kumar đều không muốn nhắc tới Phi, dù rằng Quyên, lòng dạ cô vẫn ngổn ngang vô
cùng. Sự việc Phi vừa xuất hiện đã gây cho Quyên bao suy nghĩ. Rõ ràng, cô chưa khi nào yêu Phi, nhưng thời gian cô ở với anh ta chẳng đã có biết
bao vui buồn, bao ân tình mà Phi đã dành cho mẹ con cô. Con người ta, mấy ai có thể thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm để không nhớ tới một con người như anh
ta. Bây giờ mới ra tù, anh ta sẽ sống ra sao? Anh ấy yêu mình, lại thất vọng vì sự khước từ của mình? Ở chốn tha hương này, anh ta sẽ bấu víu vào
đâu? Bao nhiêu câu hỏi tương tự đặt ra như vậy thì làm sao Quyên có thể yên lòng?

Quyên vào giường nhưng không sao ngủ được. Hình ảnh của Phi cứ lởn vởn trong cô. Con người như Quyên làm sao có thể thờ ơ được với nỗi đau của
người khác, hơn nữa đó lại là Phi, người đã chở che cho mẹ con cô một thời gian dài. Anh ta thật đau khổ. Không biết bây giờ anh ấy sẽ sống ra sao.
Mình không yêu anh ấy, không thể gá tạm mà thương hại nhau được. Rõ cả rồi, nhưng lòng cô vẫn áy náy không yên, cứ nhắm mắt là đôi mắt đầy đau khổ
của Phi khi tay lại hiện lên.

Nửa tiếng sau, Kumar vào phòng, nằm xuống bên cô.

– Em vẫn chưa ngủ? Em mệt hả?

– Không. À, vâng, em hơi mệt.

– Em mệt vì đang suy nghĩ gì phải không?

– Vâng. Em nghĩ về anh Phi.

Họ im lặng dăm phút, Kumar xoay người về phía Quyên. Anh choàng ôm lấy cô.

– Anh Kumar này. Anh Phi sẽ sống ra sao? Anh ấy vừa ra tù. Một người vừa ra tù, không họ hàng, không bạn thân, không vợ con. Anh ấy hoàn toàn cô
độc. Người như anh ấy, khi đã mất tất cả, liệu sẽ sống ra sao? Ở nước Đức này, người có án thực khó mà có một cơ hội để có công ăn việc làm tử tế.
Anh ấy đang cần chúng ta, như ngày nào em cần ai đó giúp đỡ. Ngày mai chúng ta tới thăm Phi anh ạ.

Kumar ôm chặt Quyên vào lòng. Anh hiểu hơn ai hết con người Quyên. Quyên yêu anh, cô không vô ơn và đầy thương sót cho Phi, dù rằng anh dự đoán và
tự tin rằng, tình yêu của Quyên chỉ dành cho anh.

– Ừ, ngày mai chúng ta sẽ tới thăm Phi.

Cũng không khó lắm để tìm ra địa chỉ của Phi. Một kẻ vừa ra tù trong cái cộng đồng nhỏ xíu bằng bàn tay, nhưng lại lắm kẻ ngồi lê mách lẻo.

Kumar bấm chuông. Cửa tự động rè rè mở. Phi ở tầng năm. Căn hộ có ban-công vừa nhìn ra cánh đồng và con sông, lại có thể nhìn thẳng xuống cửa cầu
thang căn nhà.

Phi thật bất ngờ khi Quyên và Kumar cùng cả Thanh Vân tới thăm gã. Gã xăng xái chạy đi pha nước. Lấy gói chíp và hộp đựng những viên kẹo socola
hiệu Merci giòn tan cho Thanh Vân.

Câu chuyện ban đầu ấp úng tẻ nhạt. Họ nói với nhau về thời tiết tuần qua, về việc Thanh Vân đi nhà trẻ, về nạn thất nghiệp. Quyên chỉ im lặng. Cô
im lặng quan sát phòng khách. Hình như tất cả vật dụng đều mua mới. Cô không biết, cửa hàng cũ, nơi cô từng ở, sau khi Phi đi tù thì ai quản lý,
nhưng cô không dám hỏi Phi điều ấy.

Để phá tan sự buồn tẻ của cuộc gặp gỡ, Kumar rụt rè hỏi, sao Phi lại ở khuất nẻo thế này. Theo anh, những người Việt xưa nay vốn hay quần tụ

Phi rướn mắt nhìn Kumar. Gã hiểu câu hỏi của anh chàng da đen. Gã không trả lời ngay mà vào tủ bếp lôi ra chai rượu Goldweien ra đặt kịch trê bàn.
Phi rót ra ba cốc lớn. Gã nhìn Quyên vẫn đăm đắm và lịch sự nâng ly nói rất sến, y như diễn viên phim: – Xin mừng sắc đẹp và hạnh phúc của em!

Cả ba người nhâm nhi rượu mà không ai muốn nói gì trước. Uống tới hai cốc, khuôn mặt Phi ửng lên, rồi tái đi.

Gã phá tan cái trầm lắng của buổi gặp gõ và nói một hơi không nghỉ:

– Tại sao tôi chọn khu nhà tận cuối thành phố đặc dân Đức xung quanh này ư? Tôi chẳng giấy gì Kumar và Quyên cả. Bây giờ tôi đã là một người giàu
có. Một kẻ có tiền như tôi hôm nay, so với người Đức chẳng bõ bèn gì, nhưng với cộng đồng Việt thì tôi hẳn là miếng mồi cho bất cứ kẻ thảo khấu nào
muốn dòm ngó, thòm thèm. – Phi dừng nói. Gã nhìn cả Kumar và Quyên vài giây như muốn chờ đợi cả hai phản ứng gì đó. Nhưng Quyên và Kumar đều im
lặng. Thấy vậy, gã lại rót thêm cho riêng mình một cốc nữa và nhẩn nha nói tiếp:

– Nhiều người Việt khác, họ không như tôi, họ quần tụ như một nhóm, giống một thôn, một cái làng nho nhỏ của người Việt đã hình thành ở bao nhiêu
nơi trên cái nước Đức này. Không! Tôi chọn cách của tôi. Đó là cách tốt nhất để bảo vệ mình. Hai năm ở trong tù, ngẫm ngĩ lại nhiều điều xảy ra ở
nước Đức, tôi quyết định sống theo cái cách của riêng tôi. – Phi hắng giọng, nhìn Quyên vài giây, nói tiếp:

– Người Việt trước nạn cướp phách từ những năm 90 tới 98, hay co cụm và sống trong cùng một khu chung cư. ở thành phố nào bên phía Đông Đức cũ cũng
vậy. Nhưng sự co cụm ấy hoàn toàn không có nghĩa để tạo nên một sức sống mạnh tự vệ mà chỉ tạo được tâm lý đỡ sợ hãi, hay giảm đi tâm lý sợ hãi, lo
bị sợ hãi, bị cướp, chứ khi co cụm như vậy, hiếm ai để tâm xây dựng cho quần thể ấy có ý thức tổ chức và kỷ luật, nhằm tạo thành một cộng đồng có
đủ sức mạnh. Anh cứ để ý mà xem, những người trung hoa lại khác. Họ quần tụ vì kinh doanh và buôn bán. Trong mối quan hệ làm ăn ấy, có những quy
ước không văn tự mà chúng ta chẳng hiểu nổi. Song họ luôn là một quần thể đoàn kết, bao bọc và thống nhất hơn chúng ta. Người Việt mình, – gã quay
sang nói với Quyên, – dầu có ở chung vài chục gia đình với nhau, vẫn mạnh ai nấy sống. Có trận cuồng phong nào, chúng ta xô dạt, tan dã. Co cụm
nhưng chẳng ai nghe ai cả là sự tập hợp bầy đàn vô ý thức. Sống ở Đức lâu, Kumar chắc biết rõ điều đó.

Kumar gật gù:

– Tớ sống ở trại, thấy các bạn hay tụ tập uống rượu đánh bài. Đồng hương đồng khói!

Màn hình vô tuyến đã tắt tiếng, bỗng chớp chớp. Kênh ZDF đang chiếu phim về những cánh rừng châu Phi. Phi cầm lấu bản điều khiển ấn nút tắt máy.
Màn hình vừa trôi qua hình ảnh những bầy thú nháo nhào vượt sông . Chúng hốt hoảng chạy tung toé trong lòng sông ngầu bùn, khi có con sấu lớn lao
tới, há toác mõm cắn vào đùi một con thú, rồi quằn mình vật vã dìm con mồi đến chết ngạt.

Quyên loé lên một ý nghĩ, nhưng cô lặng yên.

Ơ hay, người Việt như cô thấy ở đây vốn làm cô sợ hãi mà xa lánh cũng là biểu hiện như Kumar và Phi nhận xét. Vậy sự ly tán, chia rẽ bởi cái gì mà
ra? phải chăng đó là hệ quả của một cuộc sống mạnh về bầy đàn, địa phương, phe nhóm?

Cô nhìn Phi, khích lệ;

– Anh nói tiếp đi! Anh nói hay lắm!

Phi lại rót rượu, lần này cho cả chén của Kumar: Gã nâng ly uống cạn hết chén rượu sóng sánh và đặt mạnh cái ly đã cạn sạch rượu xuống bàn:

– Người mình ở đâu cũng không đoàn kết, manh mún và chia rẽ. Quyên mà sống lâu ở Đức thì khắc rõ. Khi vào trại ít bữa, nhiều nhóm thành viên trại
hình thành. Những nhóm bạn, cánh hẩu, đồng hương chỉ vài ba, dăm người co cụm lại thì rất dễ. Nhưng trở thành một trại thống nhất , biết đoàn kết
tương trợ nhau thì hoàn toàn không có thể. Một trại còn khó vậy, nói chi tới người Việt toàn thành phố, toàn nước Đức này. Đi nhiều, ở càng lâu
càng nhận ra, người mình cam chịu thân phận kẻ tị nạn hay rộng hơn là thân phận người ly quê một cách hết sức thản nhiên. Mạnh ai nấy sống! Có một
lão học ở Ba Lan, rồi làm ăn, vướng vào vụ trục trặc gì đó ở Đức, bị bắt vì tham gia buôn thuốc xuyên quốc gia, có lần lão bảo: “Cách sống bản năng
ấy như các hạt cát rời, không tạo nên sức mạnh của một dân tộc!”

– Các dân tộc khác như thế nào?- Quyên tò mò.

Phi nhìn Quyên có vẻ ngạc nhiên:

– Em không thấy các dân tộc khác ư? – Phi tỏ vẻ ngạc nhiên.

– Năm nào ở Berlin thiếu rau ăn, các cửa hàng rau trong siêu thị lớn thì mở cửa, còn các quán rau trên các phố của người Thổ thì cửa đóng then cài.
Em biết tại sao không? Người Thổ hầu như nắm đường dây cung cấp rau tại Berlin. Có việc gì đó mâu thuẫn, không rõ lắm xảy ra giữa người Thổ với
việc quản lý thành phố của người Đức, thế là người thổ bảo nhau đồng thanh bãi chợ rau. Đấy, họ bảo nhau được như vậy. Vậy những người buôn bán
Việt Nam có thể ngừng bán hàng toàn thành phố, để đấu tranh cho ai trong quyền cư trú được không?

Quyên im lặng, Phi nhìn cô rồi quay sang nhìn Kumar. Gã có vẻ đắc thắng, lại tự rót cho mình thêm một chén, rồi thảm nhiên uống cạn. Cạn cốc rượu,
gã nói tiếp như một lý luận gia chuyên nghiệp:

– Khác với chúng ta, bọn Thổ, bọn Tầu và cả bọn Hàn hay Nhật đều đoàn kết, tạo nên một cộng đồng dân tộc khi họ rời khỏi cố hương. Ở tù hai năm,
tôi đã nhận ra điều ấy khi được mục kích việc chăm sóc đồng bào, thăm hỏi đồng hương của họ trong tù. Kumar cứ xem đi, ở Đức này, mỗi tỉnh có một
Hội người Việt. Thậm chí có một tỉnh như thành phố của bọn ta ở vài nơi, có tới vài Hội người Việt. Nhưng ở phạm vi cả nước Đức, hơn hai chục năm
nay, không thể nào tập hợp được một Hội người Việt Nam trên toàn lãnh thổ Cộng hoà Liên bang Đức, đại diện cho dân đầu đen chúng ta. Nhận thức
rằng, chúng ta quan tâm lý manh mún, chia rẽ, dầu có tập trung sống đông đúc ở một khu phố nào đó, như Rihn hay Mazahn trên Berlin, nơi hàng ngàn
người Việt quần tụ trong vài cái Block, cũng chỉ là con số cộng vô nghĩa, tránh đi cái tâm lý cô độc thôi, còn thực sự vẫn là chia rẽ, đèn nhà ai
nhà nấy rạng. Chính vì vậy, khi ra tù, tôi chọn cách là ở chung với người Đức. – Phi chỉ tay ra ngoài cửa sổ. – Dường như cái khoát tay của anh vẽ
ngay trước mắt hai người bạn quang cảnh bên ngoài nơi anh ở:

– Cứ chịu khó quan sát từng ngày mà xem, cửa sổ nào cũng có một cảnh sát canh chừng cho nhà tôi. Đó là các bà già Đức, luôn bỏ rèm quan sát đường
phố. Họ là những thanh tra cảnh sát hình sự tốt nhất không phải trả tiền . Còn các khu đầy người Việt ư? Chính bọn chấn lột từ Nga tràn sang, cùng
trong tù, từng nói với tôi rằng, khu nào đông cộng ở, có tới cả ngàn vẫn không sợ, vì có ai cứu ai đâu. Chúng sẽ làm thịt hết, lần lượt từng nhà,
Phi cười hà hà và đưa tay chỉ vào Kumar- Kumar cứ thử xem. Tí nữa anh đứng ở cửa cầu thang, ngó nghiêng một lát thôi. Chỉ như vậy đủ lọt vào tầm
ngắm của hàng xóm tôi rồi. Người ta bảo, quân tử phòng bị gậy. Tôi bây giờ có tiền. Khi nào cũng là mục tiêu của bọn “bộ đội” chuyên làm thịt chính
những người đồng hương mình.

Kumar và Quyên hết sức ngạc nhiên. Họ có nghe nhầm không khi Phi nói, anh là kẻ có tiền. Tất nhiên cả Kumar và Quyên, chẳng có ai dám hỏi rõ có
thật là Phi có tiền hay không. Chính cái nhìn ngạc nhiên của họ là Phi hiểu ra ngay. Phi ngồi im một lát, rồi thật thà kể, gã đã có tiền như thế
nào.

Thì ra, khi ra tù, nhờ Luật sư can thiệp, Phi đã được nhận lại toàn bộ bất động sản và tiền trong các tài khoản của Thị. Gã điềm nhiên kể, thật ra
số tiền ấy chẳng phải của tôi. Nhưng đương nhiên, khi vẫn còn là chồng, tôi có quyền hưởng tài sản của vợ để lại. Tại sao tôi lại không nhận số
tiền ấy và sử dụng nó theo sự suy tính của tôi?

Khuôn mặt Phi khi ấy thực sự nom rất căng thăng. Quyên tự nhiên buột miệng:

– Tự dưng có nhiều tiền dễ hư hỏng lắm. Em đọc báo thấy, hầu hết những người trúng số độc đắc ở Đức, bao năm nay, số phận sau đó chẳng ra sao. Anh
Phi…

Phi nghe Quyên nói chưa dứt câu đã xua tay:

– Tôi không ăn tàn phá hại. Một kẻ như tôi, chịu đựng biết bao nhục nhã, tôi có quyền được sống cho ra trò, dù chỉ dăm năm nữa, và cái chính là tôi
cũng biết sợ.

Phi đứng dậy, xoay người, chạy ra kéo tấm rèm ngang, chỉ cho Quyên và Kumar chiếc bàn thờ trên bức tường có tấm rèn che đi và nói:

– Bà ấy khi sống, thực chẳng ra gì với tôi. Nhưng bà ấy đã mất rồi. Dầu sao tôi cũng đã có tội, dù là tội không cố sát. Tôi đã mời thầy chùa về đây
lập bàn thờ cho bà ấy. Làm lễ giải oan cho bà ấy. Chẳng giấu gì, tôi rất sợ vợ tôi khi sống và cả khi bà ấy đã chết.

Phi im lặng. Quyên cảm thấy, không khí giữa họ đột nhiên căng lên như sợi dây đàn. Phi cúi đầu xuống. Điệu bộ ủ rũ.

Phải tới hơn một phút sau gã mới nói tiếp:

– Tháng đầu tiê, tôi treo ảnh bà ta trên ban thờ. Nhưng lạ lắm, mỗi tối khi nằm xuống, nhắm mắt lại tôi vẫn cảm thấy nhưng mình nhìn rõ tấm ảnh.
Đôi mắt bà ấy cứ xoay xoáy nhìn tôi không chớp. Tôi đã mấy lần định bỏ tấm ảnh đi, nhưng không thể. Cái bát hương kia, tôi mang từ chùa về, để thờ
bà ấy. Linh hồn bà ấy vẫn quân quanh đâu đây. Hình như vậy.

Phi nói thật! Quyên tin như vậy khi nghe anh vừa nhắc tới Thị mà trên trán anh ta mồ hôi đã túa ra lấm tấm và bàn tay cầm cốc rượu bỗng ru rẩy lạ
lùng.

Trong mắt Quyên khi đó, con người Phi thật mâu thuẫn. Nói về kinh nghiệm để sống sau khi ra tù, anh ta tỏ ra từng trải, khá hơn nhiều so với Phi
ngày xưa ở quán ăn, lệ thuộc nhiều vào vợ. Cũng đúng thôi, con người ta, khi đã trả qua tù ngục, hẳn đủ thời gian và đặc biệt là sự yên tĩnh để suy
ngẫm. Sự yên tĩnh là điều kiện quan trọng để nghiền ngẫm, suy nghĩ, truy xét mọi việc một cách thấu đáo. Sự yên tĩnh giúp cho con người ta tĩnh
trí, nhìn kỹ hơn những gì còn khuất lấp trong quá khứ, mà xưa kia, cuộc sống hối hả, gấp gáp cứ ào ào chuyển động, trào qua như sóng, nhấn chìm
người ta xuống, không cho ai một cơ hội nhận rõ đâu là trái, đâu là phải. Thời gian hai năm trong tù hẳn giúp anh ta mở mắt ra, khôn hơn nhiều so
với trước đây. Nhưng khi chẳng còn trẻ nữa, tức là khi toàn bộ nếp nghĩ, thói quen, lối ống… vốn đã bắt rễ quá sâu trong tâm hồn anh ta thì dầu
có cố gắng nhận thức cuộc sống nơi đây, gột bỏ, rũ đi được bao nhiêu phần cái cũ trong con người anh? Không, sự hình thành bản ngã không bao giờ là
điều đơn giản như ta thay một cái áo, vì gốc rễ của người ta bao giờ cũng có sức sống lâu bền hơn. Rõ ràng, những điều anh ta bộc lộ, chứng tỏ ở
anh ta không hề có sự lột xác, mà chỉ là một sự pha trộn nào đó, chắp vá nên con người anh ta hôm nay. Biểu hiện lớn nhất là sống giữa xã hội
phương Tây này, cái phần bị ám ảnh bởi một sức mạnh vô hình nào đó – như tấm ảnh của Thị kia nào có mất đi? Ngay cả sự tỏ ra khôn ngoan, tính toán
trong sắp xếp chỗ của anh ta, một phần kỹ năng sống, cũng chỉ là những mẹo vặt để tự vệ. Cái sự khôn ngoan trong Phi bây giờ giống như là sự tháu
cáy vốn dĩ luôn tàng ẩn trong mỗi người mà Quyên gặp nhan nhản ở mọi nơi chăng? Còn cái tâm trạng luôn bị ám ảnh bởi người vợ cũ, lại phản ánh rất
rõ cái phần mềm oặt trong Phi, cái phần mà nhiều người Việt, dù đi Đông về Tây, khi đã từng có thời gian sống thời thanh niên ở trong nước, cũng
khó lòng tẩy sạch.

– Anh cứ kể tiếp đi? – Quyên bồn chồn nói.

– Tôi đã gửi về nhà cho gia đình Thị một số tiền để mẹ cô ấy mua một nhôi nhà đàng hoàng ở thị xã. Sắp tới tôi sẽ mua một cửa hàng ăn ở đây. Sống ở
đây đã thật buồn chán! Không làm gì, ăn không ngồi rồi thì còn buồn chán gấp bội. Tôi đã cúng một số tiền vào nhà thờ để giúp đỡ những người đói
khổ. Người ta có câu: “Của mình ăn no, của người ăn đẹt”. Của nả, tiền bạc không phải của mình làm ra, chắc chắn chẳng lâu bền, thậm trí nhiều tiền
quá, ở đất người, thân cô thế cô có khi lại tai hoạ. Sống trong tù hai năm, nghe dăm kẻ tội phạm kể chuyện, tôi nhận ra, người ta mắc vào tội lỗi
đều do tham lam quá.

Câu chuyện lại diễn ra theo chiều hướng hoàn toàn khác. Kumar và Quyên đã lo lắng cho Phi mà tới thăm gã, nhưng gã lại quan tâm và lo lắng cho cảnh
thất nghiệp của hai người. Gã gợi ý, tại sao Kumar và Quyên không dựng một cửa hàng Imbiss ở phố G.Schwiterscholl, nơi chưa có một người Việt Nam
nào mở quán mì xào.

– Chúng em đào đâu ra tiền mà mở quá? Anh cho em vay nhé. – Quyên cười nói. Nghe vậy lập tức Phi bảo, giọng rất nghiêm túc:

– Quyên đừng lo về chuyện tiền bạc. Tôi có thể cho hai người mượn ngay năm mươi ngàn Euro.

Kumar và Quyên lại nhìn nhau. Thực ra Quyên chỉ đùa với gã mà nói vậy. Sự thể thật bất ngờ. Cô thật ngạc nhiên khi Phi có thể rộng rãi tới như vậy.

Hai ngày sau, Phi tới nhà họ. Anh mang theo đúng năm chục ngàn thật. Nhưng Kumar nhất định từ chối, dù chỉ là vay mượn. Quyên suốt bữa đó chỉ im
lặng. Hai tiếng không thuyết phục được Kumar, Phi ra về. Trước khi đi, anh còn bảo, Kumar và Quyên cứ tính kỹ. Khi nào cần tiền mở quán, cứ gọi tôi
một câu, tôi sẽ mang tới ngay. Tôi cho vay, chứ có cho không mà ngại!

Tối hôm đó và tận mấy ngày sau, chuyện Phi mang tiền đến tận nhà cho họ vay vẫn là một đề tài buộc Quyên và Kumar phải cân nhắc và suy nghĩ.

Chủ nhật sau, Phi lại tới chỗ họ. Gã lái chiếc BMV giống y hệt chiếc xe như năm nào Y cầm lái, chở Thị đi kiểm tra quán. Gã tỏ ra thật bụng, không
hề vụ lợi, hay mua chuộc gì Quyên, khi trình bày thẳng với Kumar rằng, đó cũng là cách làm phúc để chuộc lại bao lỗi lầm của gã.

Phi về rồi, Kumar và Quyên bàn với nhau một lần nữa. Cuối cùng họ vẫn quyết định không vay số tiền ấy của Phi.

Kumar bảo:

– Chúng ta không thể dám chắc việc kinh doanh ra sao, nếu như thất bại thì việc hoàn trả tiền nợ quá lớn, năm mươi ngàn Euro của Phi, sẽ không bao
giờ thực hiện được.

Đó là lý do duy nhất để họ khéo léo từ chối ý kiến đầy thiện chí của Phi vào thứ ba tuần sau.

Nhìn sắc thái bên ngoài và cách cư xử, trò chuyện của Phi ở cái buổi Quyên và Kumar gặp gã, ai cũng có thể hoàn toàn tin rằng, Phi đang có cuộc
sống bình thường. Quyên cũng nghĩ như thế và cô có cảm giác an lòng sau buổi tới thăm Phi.

Nhưng thật bất ngờ, khi trong đêm, sau cuộc gặp mặt của ba người hai ba tuần gì đó, Kumar nhận được cú điện của đồn cảnh sát địa phương gọi đến.
Quyên và Kumar tất tưởi tới đồn. Hóa ra những người Đức hay ngồi sau bức rèm trong cửa sổ đã phát hiện, nhiều đêm rồi có một gã châu Á hay “rình mò
bên ngôi nhà của môt cặp vợ chồng người nước ngoài”. Cảnh sát theo dõi, phát hiện ra đó chính là người vừa mãn hạn tù trở về.

Quyên hoàn toàn sững sờ nhìn thấy bộ mặt thiểu não, đôi mắt vô hồn của Phi, khi gã bị một cảnh sát dẫn ra trước mặt cô và Kumar.

Phi thực sự biến thành một kẻ khác. Nom gã rõ thảm hại. Khuy áo sơ mi cuối cùng đứt tung. Cái áo khoác nhàu và xộc xệch. Mái tóc hôm nào vẫn chải
sóng sánh, phun keo, giờ đây rối tung, mất hết nếp, y như gã vừa đội mưa về, hay vừa uống quá say ở tiệm rượu bước ra. Phi đã trải qua điều gì mà
mất hết cả sức lực, phong độ mọi khi thế kia? – Quyên nghĩ.

– Ông bà có quen biết người này? Viên cảnh sát mặc bộ quần áo rất vừa nheo mắt hỏi.

Dường như có ai đó bắt nhịp để Quyên và Kumar cùng trả lời:

– Vâng!

– Có việc gì xảy ra vậy, thưa ông cảnh sát? – Quyên quay mặt sang hỏi viên sỹ quan trực ban.

Phi được ngồi xuống cái ghế tựa, gã im lặng quay mặt đi. Gã bỗng thấy đau đớn vô cùng, khi sự sợ hãi vô cớ đã biến mất ở giây phút đầu tiên chợt
trông thấy Quyên xuất hiện. Cái trạng thái nửa u mê, nửa tỉnh táo, của con người đó trong gã, đã đẩy gã nhiều đêm bỏ nhà ra đi lúc nửa đêm đến rình
mò dưới nhà của Kumar và Quyên. Gã cũng không tự trả lời rành rọt các câu hỏi của cảnh sát Đức. Làm sao có thể hiểu được những kẻ tị nạn mà văn hóa
và phong tục khác hẳn người Đức! Những điều Phi kể với họ, nếu có mạch lạc đi nữa, cũng không thể cắt nghĩa từ đâu mà gã châu Á này cứ tin là chiếc
ảnh của người đàn bà xấu xa kia có một sức mạnh ghê gớm có thể làm gã hoảng loạn tới vậy! Không, gã không có một âm mưu nào hắc ám. Cảnh sát đã
thẩm vấn, vặn vẹo, tra hỏi gã vài tiếng, gã chỉ một mực khai rằng, gã thân gia đình Quyên, yêu đứa bé con tên Thanh Vân, nhưng không muốn làm phiền
họ, nên chỉ tới đó để nhìn nó tí thôi. Có vậy! Cảnh sát không tin điều đó rồi. Người ta đặt ra nhiều tình huống để lý giải sự có mặt của gã dưới
ngôi nhà ấy. Nhưng nếu đúng là gã thân với gia đình này và không có hiềm khích gì với họ, thì có thể coi trạng thái tâm thần của gã có vấn đề. Lập
tức, sau dự đoán ấy, họ đã gọi điện cho Quyên để xác nhận mối quan hệ của gã với gia đình cô.

Chuyện chỉ có vậy, bởi vì khoong thể giam giữ quá lâu một người chưa có hành bi phạm tội, ngoài cái lý do nghi ngờ gã đứng trước ngôi nhà có một
người đồng hướng quá lâu và nhiều lần trong đêm tối. “Ông ta có vẻ mệt và nhờ cậy ông bà tới bảo lãnh”. – Viên cảnh sát nói, rồi nhờ Quyên dẫn Phi
ra ô-tô và giữ Kumar ở lại vài phút.

– Chúng tôi mong ông bà giúp đỡ anh ta. Dù không tìm thấy một tấc vũ khí nào trong người nhưng anh ta không có giấy tờ, nên chúng tôi buộc phải giữ
vài giờ để xác minh, nhằm đảm bảo an toàn trong khu vực chúng tôi quản lý. Bây giờ thì rõ rồi! – Viên cảnh sát lễ độ trả lại hai cuốn hộ chiếu của
Kumar và Quyên. – Là người quen thân của anh ta, xin ông bà hãy đưa anh ta đi bệnh viện để bác sĩ xem xét lại trạng thái sức khỏe. Tôi nghĩ, có vấn
đề nào đó chăng?

Rõ ràng là Phi có vấn đề ! Hai giờ đêm, Kumar và Quyên mới thấy Phi hoàn toàn thoát ra khỏi trạng thái đờ đẫn, trở lại vẻ bình thường như hôm nào
mới gặp lại.

Trong yên tĩnh, tiếng Phi rành rọt, chậm chạp, đều đều kể về những gì đã xảy ra cho Quyên và Kumar nghe.

Thì ra, đêm nào Phi cũng rơi vào trạng thái mê mê, tỉnh tỉnh, khi bất ngờ chợt nhìn thấy mắt của Thị cứ nhìn gã “xoay xoáy từ trên ban thờ”. “Tôi
đã hạ ngay cái ảnh ấy một tháng nay rồi”. Nhưng khổ quá, đêm nào, dù không còn ảnh bà ấy trên ban thờ nữa, tôi vẫn thấy đôi mắt của bà ta. Mà đôi
mắt ấy muôn trạng lắm. Đôi khi nó rất tha thiết và không hề đau đớn giống như hồi tụi tôi còn hạnh phúc bên nhau ở Việt Nam”. – Phi vò mãi mái đầu
đã rối tung càng rối thêm và đập lòng tay xuống bàn. – “Có lúc lại nhìn rõ trong bóng tối, mắt bà ta cứ long lên, y như những khi bà tức giận. Tôi
sợ nhất khi bà ấy nhìn tôi, rồi đôi mắt cứ trợn ngược, dại đi. Có lúc toàn lòng trắng. Nó hệt như đôi mắt tôi đã nhìn thấy, sau lúc bà ấy tự lao
vào tôi, cắm ngập trong lưỡi dao đêm ấy, rồi ngã ra trước mắt tôi! Trời ơi! Sao bà ấy ghê gớm vậy? Sống cũng hành hạ tôi, mà tới khi chết vẫn trở
về tra tấn tôi như vậy !”. Gã ôm đầu và rên rỉ. “Tôi bỏ chạy khỏi nhà mỗi khi sự thể như muốn làm tôi vỡ tung đầu ra. Sự ấy cứ lặp đi lặp lại từng
đêm, chỉ vào gần nửa đêm, khi thân thể tôi đã mỏi dừ sau một ngày làm việc. Lao ra đường phô, tôi chỉ còn mỗi cách ấy. – Gã thở gấp. Dường như khi
kể lại, Phi buộc sống lại trong sự sợ hãi mà Quyên và Kumar không sao tưởng tượng ra. – Một bận lang thang không hiểu sao tôi đến được trước cửa
nhà em. Tự nhiên, khi đứng vài giây ở gốc cây nhìn lên căn hộ, tôi thấy an lòng lạ. Tôi như nhìn rõ tất cả. Thấy rõ hình ảnh của em và Kumar cùng
Thanh Vân chơi đùa, sinh hoạt, đi lại trong phòng và cơn sợ hãi bỗng tan đi. Từ đó, mỗi khi bà ấy xuất hiện. Tôi lập tức đến đây cho tới khi bình
tâm lại. Tôi không hiểu được, vì sao? Vì sao chỉ sau khi tới bên ngôi nhà của em, tôi mới có thể trở về ngủ được bình thường và không thấy bà ấy
quay lại”.

Kumar và cả Quyên lắng nghe những lời Phi kể. Câu chuyện thật hoang đường! Nhưng rõ ràng mọi cảm xúc của Phi, qua giọng kể tới khuôn mặt khi thuật
lại sự việc đều cho Quyên cảm giác rằng gã rất thật. Làm sao gã có thể dối trá khi đôi mắt của Quyên nhìn thẳng vào đôi mắt của gã. Trong lòng của
Quyên khi đó trào dâng lòng thương xót Phi ghê gớm. Tại sao anh ta lại có thể rơi vào những trạng thái sống trớ trêu, đầy đau đớn, khổ sở như thế?
Rất tự nhiên, hai bàn cô nắm chặt đôi bàn tay Phi. Con người ta, sự thông cảm, chia rẽ với đồng loại, phải mọc lên, bắt rễ từ chính môi trường sống
đã trải qua, chung một hoàn cảnh như nhau. Chính sự trải nghiệm của Quyên, khi nếm trải sự tha hương, từng sống cảnh bị ruồng bỏ, cô độc, cho cô dễ
nhận thấy đến tận cùng nỗi đau khôn xiết của Phi. Sự nhận cảm này, ở ai đó dù nhạy cảm đến mấy, dù tử tế tới mấy, nếu không chung một hoàn cảnh
sống cụ thể như Phi, từng đau đớn cô độc như Phi, khó có thể có cái cầm tay ấm áp và thật lòng như đôi bàn tay Quyên đêm nay.

“Thôi, khuya lắm rồi. Anh đừng về nhà nữa. Đêm nay anh ngủ ở đây!”. Kumar cũng nói y như Quyên. Họ mau chóng trải tấm drap xanh lên đi-văng phòng
khách và lấy cho gã tấm chăn mỏng. May quá, cô nhớ, vẫn còn vài viên thuốc an thần hoạt huyết dưỡng não mẹ cô gửi sang cho, vì có những ngày trước
đây Quyên đau đầu và mất ngủ. Cô bưng một ly nước nóng cho Phi và lấy thuốc cho gã uống.

Nửa tiếng sau, căn nhà yên ắng như chẳng có chuyện gì xảy ra. Khi đó Kumar mới rón rén từ phòng ngủ bước ra. Phi ngủ rồi! Trong đêm tối, dưới ánh
sáng lờ mờ của đèn ngủ, hình như Phi hơi mỉm cười, mắt anh nhắm lại và Kumar nghe rất rõ tiếng Phi thở nhẹ, đều đặn. Kumar mỉn cười trong đêm tối.

Quyên lại không ngủ. Cô thao thức tới hơn giờ nữa. Trời ơi, Phi tới đây trong trạng thái ấy, lại điều khiển chiếc xe với tốc độ 50 cây số giờ thì
việc gì sẽ xảy ra, nếu anh ta đâm vào một vật nào đó chuyển động trên đường. Trong đầu cô, hiện lên hình ảnh hôm nào về tai nạn của Hùng. Chiếc xe
lộn nhao và chiếc cáng đẫm máu.

Có thực có một thế giới tâm linh không? Nếu có thì người nào sống ác mà chết đi cũng sẽ làm ma ác ư? Hay là con người ta, khi giết người, vô tình
hay cố ý, mỗi nước có thể có những luật lệ khác nhau để tòa án xử phạt, nhưng dù luật lệ có xử mức độ ra sao thì không có tòa án nào bằng tòa án
của lương tâm! Phải chăng chính điều đó dẫn Phi tới hoang tưởng như vậy? Lương tâm mỗi người ở đâu? Phải chăng nó là một quá trình nhận thức trong
một xã hội nhất định để ý thức rằng, có tội hay không có tội và, mức độ của tội ác ra sao để kẻ phạm tội tự suy nghĩa mà phán xét chính mình? Vậy
Phi có tội không? Phi có tội thì cô có tội trong cái chết của Thị không? Dù sao chăng nữa, cô cũng có liên quan tới Phi và phải có trách nhiệm với
anh. Quyên quay sang Kumar: “Này anh đã ngủ chưa? Mai ta đưa Phi đi khám bệnh, anh nhé!”…

Gió ngoài giờ vẫn thổi. Những đám lá rụng trải qua suốt mùa đông, từ tháng Mười tới tháng Hai đã khô ơi là khô, khi bay trên mặt đường đêm tạo ra
những thanh âm nghe cũng khô xác và cũng theo độ lớn, nặng nhẹ mà quần tụ với nhau, bên các vật cản trên đường phố. Có tiếng lách tách nổ hay nứt
của vỏ cây. Có lẽ sang xuân, những vết nứt sinh ra bởi mùa đông khắc nghiệt ấy là nơi dễ nhất để các mắt cât nhú ra, vụt biến thành những chồi
xanh.

Ngay sớm hôm sau Quyên thuyết phục Phi để Kumar đưa đi khám bệnh và bác sĩ lập tức quyết định buộc Phi nhập viện. Người ta cũng chẳng khó khăn lắm
khi phát hiện ra những tổn thương khá lớn trong tâm hồn con người tóc đen nhỏ thó này. Bác sĩ trưởng Khoa tâm thần của bệnh viện dự kiến, nếu gia
đình kết hợp, chi hai tháng sau anh chàng này sẽ ra viện. Dự đoán ấy làm Quyên thấy nhẹ cả lòng.

Vì thế, rảnh ra là Quyên giục Kumar ghé thăm Phi cho anh bớt cô quạnh. Chủ nhật nào cũng vậy, bé Thanh Vân lại cùng cả nhà tới thăm Phi. Nó hát và
múa cho Phi xem. Nó khoe những bức tranh nhiều màu vẽ chú Phi ngộ nghĩnh, rồi nhảy lên cổ Phi mà đong đưa.

Sức mạnh của thôi miên cũng thực kỳ diệu khi kết hợp với những liệu pháp khác của y học tiên tiến nhanh chóng giúp Phi thoát khỏi trạng thái trầm
cảm, hoang mang. Anh ra viện nhanh hơn dự kiến ban đầu.

Buổi trưa ngày đón Phi về, họ tới một nhà hàng ven hồ Thuesse vui vẻ tới tận chiều. Bất ngờ quá, trong lúc phấn khởi Phi lục túi sách lấy ra một
tập vở, rồi đọc tới dăm bài mà anh gọi là thơ. Kumar thì gật gù tỏ vẻ tán thưởng, song thực ra anh cũng chẳng biết hay hay dở. Ừ nghe cũng vần ra
phết! Hay quá! Quyên vỗ tay đôm đốp làm Thanh Vân cũng tới bên Phi đập bàn tay nhỏ xíu vào bàn tay Phi tỏ ra cùng phe với Phi. Quyên cười rạng rỡ.
Trong thâm tâm cô, điều vui mừng lớn nhất là Phi đã khỏi bệnh. Thực chất bấy nay, bởi cuộc sống con cái, công việc kiếm ăn bận bịu, cô cũng chẳng
quan tâm nhiều tới thơ. Quyên lắng nghe, nhưng bài thơ của Phi rõ ràng có nhiều câu thật thà lắm, nhưng cô vẫn nhận ra cảm xúc thực, không giả dối
của một tâm hồn đau khổ. Quyên thầm nghĩ, Phi có tâm hồn thi sỹ, Quyên bảo, thơ của anh Phi hay nhưng buồn. Nếu anh chịu khó rèn giũa. Thơ Phi sẽ
hay nữa. Ai có ngờ rằng, lời khen ấy lại làm Phi vui vô cùng. Và niềm vui ấy cứ âm ỉ sống với anh suốt thời gian sau đó. Nó giúp Phi kiên nhẫn và
hứng khởi từng đêm viết nhiều bài thơ khác, như một nhà thơ chính hiệu.

Cuối năm, trong buổi lễ liên hoan Tết âm lịch của cộng đồng tít tận thành phố Hanover, Phi đã làm nhiều người Việt ngạc nhiên, kể cả mấy nhà thơ
cộng đồng quen thuộc, khi anh dõng dạc đọc tới ba bài thơ liến. Phi chẳng e dè khi trần tình sự xuất xứ của thơ anh. Rằng, những bài thơ ấy là
những đứa con của gã sinh ra trong bệnh viện tâm thần, giữa những cơn mê tỉnh tựa như điên cuồng.

Những người Việt, đủ mọi tầng lớp sang đây cốt kiếm sống, nghe thơ lục bát của Phi cũng ít nhiều hiểu ra Phi muốn nói gì. Tỉ như câu: Tôi hay đi
chốn xa xôi/ khói quê hương cuốn bên tôi chẳng rời… thật dễ hiểu, nó giống tâm tư họ quáu đi thôi, ai mà chả biết. Nhưng khi Phi đọc: “Chốn xa
hoa cỏ thơm đầy/ dẫu ngàn mây vẫn trời đầy biệt ly…” thì tiếng xầm xì cử tọa nổi lên. Lại bất ngờ có kẻ bảo, hoa cỏ quái gì… Có đứa vỗ thay rầm
rầm và nói, đúng là ăn chơi, xa hoa lắm. Phi nó nói quá đúng.

Thôi thì thơ là thứ phù phiếm, lơ mơ, chẳng thể rõ ràng, như đếm “bốn cái quần bò hay ba cái áo phông”. Nó được hiểu như thứ ăn thêm, ai muốn ăn
thì ăn. Nhưng khi nghe gã đọc một bài thơ, rồi bảo là dòng thơ hiện đại, thì cử tọa im bặt “Chả hiểu cái ông Phi nghĩ bậy nghĩ bạ gì mà tụt quần ra
đứng giữa đường như thế này. Có điên mới vậy, chứ bố bảo thằng phi bây giờ dám cởi truồng đi ra phố”… Có ai đó thì thào nói sau bài thơ Phi dõng
dạc đọc. Một kẻ tò mò cầm lấy tờ giấy chép thơ của Phi.

Bài thơ viết.

Tôi trần truồng đi trên phố

Người xe xuôi ngược

Ai tay che mặt

Ai nhìn quay quắt

Vẫn tôi trần truồng thản nhiên đi

Tôi bước

Từng bước chân tôi

Trong khoảng không

Thế giới của tôi trong vắt

Tôi muốn nghe tiếng muôn loài…

Ôi, giản đơn tôi yêu

như yêu ngày và đêm

và sợ tuyết lửng lơ đang thật

Những buổi đọc thơ của Phi dầu sao cũng trôi đi trong tất bật và vội vã của đời sống cộng đồng, nó chỉ bất ngờ khi có một ngày Phi đọc thơ xong,
dõng dạc công bố, tớ sẽ in một tập thơ Thơ lên đồng.

Nói là làm. Quả thật, mùa thu năm ấy, Phi bỏ tiền in một tập thơ, in bằng giấy trắng tinh, úp bìa dầy cứng, gáy mạ vàng chóe. Chết cha, cái việc
nhỏ ấy mà kết quả bất ngờ, bởi sau khi tập thơ ra đời, Phi làm nhiều người Việt trong thành phố từ ngạc nhiên tới khâm phục, nhất là lúc được anh
tặng sách. Tất nhiên không phải ai cũng hoan hỉ, khi trong cộng đồng của họ, xuất hiện một kẻ làm thơ và in một cuốn sách. Một kẻ nhận xét, thằng
ấy bây giờ đúng là hâm nặng. Ừ có hâm nặng mới làm thơ chứ, khi mà ở cái xứ này, người ta sang đây cốt là để cơm no ấm cật, thơ là cái quái gì,
không sinh ra được tiền. Với Euro thơ chẳng bằng cục c.! Nhưng có người lại bảo, đừng nói vậy, khi cả làng này có người hỳ hục kiếm ăn, đầu tắt mặt
tối, thêm một người làm thơ – cũng lam lũ vất vả, chứ thằng Phi ở tù, chết vợ ấy có sung sướng, hạnh phúc cái chó gì đâu – thế mà nó lại làm được
cả thơ thì hơn đứt chúng ta rồi. Được vài thằng như nó, thêm vài người đàn, ca, sáo, nhị nữa những buổi hội hè có họ, chẳng xôm xôm ra trò hẳn lên
đấy thôi. Nó không ngẫn, nó là Phi nhà thơ xóm, thơ làng. Có người cười bảo, tại sao không thể coi những bài của Phi làm là thơ. Khi thơ của nó
không làm quán bán hoa, quầy bán quần áo, quán mì xào của bọn mày hụt khách đi, thì bận gì đến ai? Ừ, nghe cũng lọt tai! Từ đó, hỗn danh Phi Ngẫn
được người ta quên dần đi. Cách gọi Phi nhà thơ mỗi khi cánh lao động Việt Nam sum vầy, được cả vùng quen dần và, chả có văn tự gì cả, tự nhiên cái
“làng Việt Nam” ở thành phố này trao cho gã một hỗn danh mới ăm ắp vinh dự: Phi Thơ.

Việc này Kumar không bàn ra tán vào. Anh biết gì về thơ Việt Nam mà bàn. Quyên thì bảo, cứ để cho anh ấy làm thơ. Người ta nhiều bức xúc, suy nghĩ,
vui hay buồn quá, thì cứ để người ta xả. Mà lục bát thì cả nước Việt ai chẳng thấm nhuyễn, để có thể ứng khẩu, đọc ngay được dăm câu, nữa là con
người giàu tình cảm như Phi.

Nhưng sự kiện Phi thi sỹ cũng chưa đặc biệt và bất ngờ lắm. Nửa năm sau đấy cả thành phố đồn ầm lên Phi sắp lấy vợ. Mà lại là cô vợ trẻ chỉ bằng
non nửa tuổi gã. Quyên không tin. Kumar cũng không tin. Phi bấy nay mở quán, làm ăn phát đạt, bận bịu lắm, không có thời gian la cà đâu cả, dù có
ai manh mối cũng đâu nhanh như vậy? Hơn nữa, cô cũng tin rằng, việc trọng đại như vậy làm sao Phi không tới báo cho cô và Kumar biết.

Một bữa, có hai người tị nạn ở trại Goldberg tới nhà giúp Kumar dán lại giấy tường gian bếp và sửa chữa một số vật dụng trong nhà. Công việc mãi
đến sẩm tối mới xong. Quyên lấy tiền trả công cho hai người đồng hương. Lúc trao tiền một người cứ nhìn cô đăm đăm và buột miệng nói:

– Chị nom giống vợ sắp cưới của thằng Phi thơ quá.

Quyên ngạc nhiên tới không ngờ:

– Anh nói sao? Ai giống tôi?

– Vợ thằng Phi chứ ai? Cả thành phố này đều biết, riêng chị không biết? Một cô gái Nghệ Tĩnh mới 18 xuân son, nom sinh đẹp giống chị lắm. Chỉ khác
là cô ấy nhuộm tóc vàng ươm, mốt lắm chứ không để tóc ngang vai như chị.

– Các anh nói đùa. – Quyên gặng – Làm như lấy vợ dễ lắm. Phi bốn mươi. Có đứa nào trẻ vậy mà chịu lấy người vênh tuổi thế làm vơ?

– Ối giời ơi! – Này, bà chị cứ thả ông anh em ra! – Gã gầy gò, hàm răng vổ như bàn cuốc cười nhăn nhở nói với Quyên – Vào trại mà xem! Tháng trước
nhiều thiếu nữ, đàn bà, cả đàn từ trại trên berlin chuyển xuống. Toàn các em xinh trẻ. Ông anh nhà chị có pát-si-po rồi, có giấy cư trú vô thời hạn
rồi, lại có quán sá thế này nữa, tha hồ vào đấy chọn. Hàng tá các em giơ tay lấy ngay. Em chỉ e bà chị! – Gã lại toang hoác cười vô tư.

Lại thế nữa! Tại sao Phi có thể dễ dàng quyết định một sự việc hệ trọng của một đời người như thế, nhất là anh cũng đã trải qua một lần đầy bất
hạnh với đời vợ trước. Không thể kiên nhẫn chờ đợi. Quyên cầm lấy máy điện thoại, bấm số gọi cho Phi.

Phi có vẻ hơi ngượng, gã đỏ mặt ngồi xuống khi Quyên đưa cho cốc trà mật ong thơm nghi ngút khói.

– Bây giờ chỉ có hai người, anh nói đi! Sự thể ra sao? Sao anh có thể lấy vợ như chọn cái áo vậy!

Quyên cất tiếng, giọng nhỏ nhẹ nhưng Phi vẫn cảm thấy câu hỏi ấy đầy trách móc.

Phi yên lặng. Gã cầm ly trà rồi lại đặt xuống bàn và nhìn ra ngoài cửa sổ. Quyên cất tiếng:

– Nói đi, anh Phi! Ở thành phố này, em coi anh là bạn thân nhất, chẳng nhẽ anh không thể chia sẻ với em ư?

Phi quay lại nhìn Quyên. Ừ, Quyên nói đúng bởi ở đây gã và Quyên đã từng gắn bó. Thực ra lòng gã vẫn thường nhớ Quyên, có lẽ chính vì thế mà khi gã
quyết định lấy cô gái trẻ ấy, gã tự thấy có gì không phải. Sự không phải ở đây chỉ là với riêng Quyên thôi. Vì vậy, hơn tháng nay gã không muốn cô
biết chuyện gã sẽ lấy cô gái kia. Sự thể bây giờ tới vậy rồi! Quyên đã phong thanh biết, sao không nói tuột cho cô rõ? Nghĩ vậy, nhưng Phi vẫn lúng
túng, không biết bắt đấu từ đâu. Vài giây suy tính, gã móc ví ra lấy một tấm ảnh, trao cho Quyên và nói gọn lỏn: “Nó đấy”

Nó đấy là cô gái rất trẻ, đôi mắt đầy thách thức, đang nhìn Quyên không chớp. Quyên cầm tấm ảnh ngắm kỹ. Người đồng hương đã nói đúng! Quả thật
người con gái trong ảnh có nhiều nét hao hao gống Quyên. Tấm ảnh chụp gái đang đứng trước lâu đài ở Schwerin. Chắc gã mới đưa cô đi chơi ở đó.

“Cũng giống em nhỉ, song hình như khuôn mặt cô ta dài hơn và gò má cao hơn!” Quyên buột miệng nhận xét. “Không đâu! Không hóa trang, nó giống em
lắm. Đánh hai vệt son đậm dưới gò má, khuôn mặt hiện đại hơn. Bây giờ mốt, gò má phải cao lên.” Phi nói. “KO! Có lẽ như vậy thật, tụi trẻ hôm nay
nhiều cô môi trầm, nâu, đen đủ cả. Gò má đánh vệt son cho cao, quần trễ hở hết rốn, áo lộ lõm ngực. Kiểu tóc thì ngoài cửa hàng thiếu gì thuốc
nhuộm, thoát một cái là biến màu đúng theo mẫu các diễn viên thế giới đang hót” Quyên thầm nghĩ. Cô đặt tấm ảnh xuống bàn, nhìn Phi: “Nào! Làm thế
nào mà anh quen được cô ta”?

– Có gì đâu! Trong trại Goldberg, hai tháng trước, nhận về hơn ba chục người, phần đông là các cô gái còn rất trẻ. Họ từ Leipsich, Cottbus tới.
Người ta mau chóng sàng lọc và gửi trả ngay về Việt Nam dăm người được xác định là chẳng có lý do gì để tị nạn. Điều đó thì em chắc hiểu. Cô gái
cũng tên Quyên này thuộc số người đang sàng lọc và cô ta rất lo lắng. Cô sinh ra trong một nhà có ba chị em. Cha mẹ cô ấy đều là dân buôn thúng bán
mẹt ở thành phố Vinh và nghe ai đó bảo, đi Đức đổi đời ngay. Lại môi giới cho du lịch sang Nga rồi sang Tiệp và vượt biên sang đây. Tất cả chạy
vạy, vay nợ, mất toi hai chục ngàn đô. “Sang tới đây em mới biết cái thời làm ăn hái ra tiền để nhanh chóng trả nợ hết rồi. Bây giờ mà bị tống về
chắc bố mẹ em còn nước uống thuốc sâu tự tử!” Cô ấy nói vậy. Tháng trước, từ bảy giờ tối, cô ấy tới nhận dọn dẹp lau chùi trong quán. Thực ra, ban
đầu tôi cũng chẳng để ý cô ta, nhưng hôm trả tiền công, biết cô cũng trùng tên với em , tôi giật mình. Mà kỳ lạ quá, tên giống, ngắm kỹ khuôn mặt
cũng giống! Em nhìn ảnh xem có như hai chị em không?. – Phi ngừng kể, quay mặt đi.

Hoá ra gã “yêu” như vậy!

Quyên cũng im lặng. Bấy lâu cô cũng nghe đồn việc lấy chồng của cô dăm cô gái rất trẻ, trong số những kẻ tị nạn. Nhiều người sẵn sàng lấy bất kỳ
người đàn ông nào, miễn là người ấy có giấy tờ định cư lâu dài ở Đức. Theo luật phát, nếu có chồng là được ăn theo chồng, nghiễm nhiên ở lại hợp
pháp. Việc ấy thật dễ hiểu. Họ sang đây với bao mơ ước, trong khi nợ nần ở nhà của người thân lại chồng chất. Đổi cuộc đời đi bằng mọi giá, thực
đáng thương chứ nào đáng giận. Nhưng tại sao Phi cũng nằm trong số những người đàn ông đón nhận “tình yêu” kiểu ấy? Lúc cô nghe người ta kể chuyện
về Phi, Quyên không thể tin được. Hoá ra, sự thật lại đúng như lời đồn đại. Cô không thể đưa một lời khuyên nào cho Phi. Chẳng còn trẻ trung gì
nữa, đã từng đau khổ và thất bại, Phi cũng khó có thể sống cô độc mãi Nhưng việc chọn lựa vợ của anh Phi như vậy, liệu rồi hạnh phúc một gia đình
thật sự sẽ đi về đâu? Cho là anh thương cô ta, cho là anh lấy cô ấy vì nhớ ai mà lấy, thì liệu cái tình cảm vợ chồng thiêng liêng, rồi con cái sinh
ra trong sự gá tạm ấy, sau sẽ ra sao?

Vài tháng sau, Phi tới báo tin anh đã đăng ký và phải chuyển vợ trẻ sang bên Hung để đón về Đức. “Luật của Đức gần đây là như vậy, tốn kém một tý
nhưng bắt buộc cô ấy phải sang nước thứ ba”. Phi phân bua với Kumar và Quyên như thế.

Để xem sự thể ra sao. Nửa năm nữa, Phi báo tin đã đón được vợ sang Đức đoàn tụ. Bữa liên hoan ngay tại nhà hàng của vợ chồng Phi, gọi là cưới, quan
khách cũng chỉ ba bốn chục người, đa phần là dân làm ăn với Phi. Cô vợ trẻ ăn mặc thật mốt, áo váy dài trắng muốt. Khuôn mặt Phi cũng vui, cũng
cười nói, cũng hỷ hả. Song xem ra, trong tiệc cưới ấy, khi nhìn thấy Quyên, anh vẫn cứ có vẻ sượng sùng.

Vài ngày sau khi họ cưới, Quyên muốn hỏi về khai thuế nên rẽ quan quán của Phi và đã đụng phải cô vợ trẻ.

Ngắm kỹ, Quyên trẻ nom thật khác với cô. Chiếc quần bò trễ lòi cả rốn và chiếc áo rộng cổ, chẽn và ngắn phô lõm ngực trắng nõn, loại hàng hiệu đắt
tiền vừa khít, nên nom cô ta cũng thật là gợi cảm. Chỉ có điều là nom thấy Quyên, cô ta – Quyên trẻ – có vẻ khinh khỉnh. Thôi không chấp làm gì! Cô
ấy còn trẻ mà. Quyên nghĩ.

Không tháy Phi than phiền gì cuộc sống gia đình mới. Mấy bận khác, rẽ qua quán nhà Phi, nom anh ta không còn sượng sùng nữa, thậm trí tươi hơn, đỏ
da thắm thịt hơn. Song có mấy người làm thuê cho Phi tới chơi, mách Quyên rằng, trời ơi, con nặc nô ấy sát tàn lắm. Bà chủ trẻ nắm quầy tính tiền.
Hôm nọ vừa bắt con gà Phi sắm cho cái vòng bạch kim đính ba bốn hạt kim cương to vật. Chắc vài năm nữa đó, bà trẻ bòn hết thì ông Phi lại ra đê
thôi!

Quyên và Kumar không dám bình luận gì. Thôi ván đã đóng thuyền. Vả lại Quyên chợt nghĩ, hạnh phúc trong sự chênh vênh hôm nay, vốn trơn nhẫn như
lươn ấy, được một ngày có hạnh phúc trong tay, nên trân trọng nâng niu nó. Và, cô cũng nói với Phi đúng như vậy.

Mùa xuân tới, những người Đức qua lại siêu thị Rial mới mở, rộng hơn mười ngàn mét vuông, thấy bên kia đường, trên khoảnh đất đối diện trước cửa
hàng bán đồ câu cá, có hai người ngoại quốc lúi húi dựng dăm cây cột sau bức rào mắt cáo. Vài ngày sau, một nhà tạm lợp mái nhựa mọc lên trước xe
moóc container ấy, dăm hôm sau treo thêm một tấm biển màu da cam với hàng chữ đỏ chói: Asia Imbiss.

Quán ăn nhanh đó đăng ký kinh doanh tại Finanamt thành phố, mang tên Kumar.

Để có quán ăn nhanh này, phải kể tới công của Quyên. Số là đầu năm ấy, Quyên dọn dẹp, vệ sinh dăm buổi cho chủ quán bán đồ câu cá trước siêu thị.
Là người sởi lởi mau chuyện, anh Stepan chủ đất, cũng là chủ quán bán đồ câu, thương người đàn bà châu Á xinh đẹp không có việc làm thường xuyên,
đã đồng ý cho Quyên thuê khoảnh đất sát hè đường của anh. Stepan cho phép họ dựng tại đó một quán ăn đặt tên xe moóc. Giá thuê thật rẻ như cho, ba
trăm Euro một tháng. Kumar tính, toàn bộ chi phí mua một cái Imbisswagen của một người Việt, cách đó hai trăm cây, hết ba ngàn Euro. Anh và Quyên
sẽ tự sơn mới lại, sửa các thiết bị bên trong. Như vậy Quyên và anh không cần vay nợ ai.

Thật ra, để đi tới quyết định này, Quyên và Kumar cũng cãi nhau một trận ra trò, giận hờn tới hai ba ngày, chứ chả dễ dàng đồng thuận gì. Ấy là khi
họ bàn tới việc nhân công lao động. Kumar cho rằng, không thể để Quyên vào cuộc khi bé Thanh Vân vẫn cần chăm sóc. Anh không muốn Quyên làm việc
một giờ nào trong quán và anh muốn thuê một hai nhân công người Việt. Quyên lại không muốn như ý kiến Kumar. Cô muốn, cô sẽ là người bán hàng, bởi
cô rất hào hứng và thú vị khi tưởng tưởng ra cảnh chính cô đứng trước quầy hàng thu tiền của khách và xào nấu nhanh thoăn thoắt như ai. Ừ, dù có
vất vả đi nữa, cô cũng thực hiện sở cầu, không làm chủ to thì là chủ nhỏ. Giờ cũng là chủ nhỏ, không còn ở tư thế người làm thuê thụ động nữa.
Nhưng Kumar lại cho là, Quyên chưa hề xào nấu, không thể đứng bếp. Cô có thể giúp đỡ anh nửa tiếng trong mỗi buổi chuẩn bị nguyên liệu ở nhà thì OK
lắm . Chứ khi anh đi vắng, nếu không có một đầu bếp chuyên nghiệp, làm sao cô có thể đứng ở quầy? Anh cười nói: “Khách hàng ăn vài buổi sẽ bỏ quán
chạy mất dép”. Cái cụm từ bỏ quán chạy mất dép mà Kumar nói ra rất Việt ấy làm Quyên đỏ mặt, đầy tự ái. Sao Kumar có thể coi thường khả năng của cô
tới như vậy? Dù Quyên biết rằng, vì thương Thanh Vân và yêu cô, Kumar không muốn cô vất vả. Song còn khao khát của cô nữa chứ. Cái khao khát làm
người phụ nữ độc lập mà cô không muốn nó toạc ra làm cô buồn bã. Cô dỗi Kumar tới hai ngày không nói, không cười, im như thóc, mặc cho Kumar tha hồ
làm lành, tận tới khi có Phi tới. Gã nghe cô và Kumar trình bày xong, liền như trọng tài giải hoà xung đột đó: “Ừ, việc thuê nhân công cũng có thể
được. Nhưng phải là người tin cậy, vì các bạn chưa từng quản lý. Mèo nhỏ bắt chuột nhỏ. Ban đầu chưa đông đâu. Cứ để cho Quyên vừa làm vừa học. Tôi
sẽ tới trợ giúp một tháng. Còn hiện tại, các bạn không có ai tin cậy để giao phó, thì luôn phải có một trong hai người ở quán. Người mình cần cù
chịu khó lắm. Đó là đặc tính rất ưu việt. Nhưng cứ sểnh không kiểm tra xem. Chẳng có ai tự giác mà làm việc, nếu của cải ấy, quán sá, cơ xưởng ấy
không phải bỏ tiền ra, họ chẳng xót xa đâu”.

Đúng rồi! Quyên đế thêm và nghĩ, Phi nói có lý quá. Người Việt mình, vốn có câu thân lừa ưa nặng. Hồi nào còn làm công việc dọn vệ sinh, lau quét
cửa hàng với ba người Việt khác, cô đã nhìn thấy người ta lao động ra sao, nếu người chủ không ở đó. Cô nhìn Kumar vẻ đắc thắng, trong khi Phi nói
tiếp, cho rõ thêm những kinh nghiệm của anh trong nghề lắc chảo suốt ba năm:

– Sự tự giác đứng trong một bộ máy dủ nhỏ với người Việt ta là khó đấy. Vào dây chuyền của Tây, công nghệ nó buộc mình phải làm việc thôi. Hơn nữa,
còn vấn đề nữa, mà chưa từng làm quản lý, các bạn khó nhận ra lắm. – Phi nói và kể, mắt anh long lanh sáng vì những gì thu lượm bấy lâu nay trong
việc quản lý cái quán nhỏ và nay là một tiệm ăn lớn, vô tình đã giúp cho bạn bè của anh ở vai trò cố vấn mới oai chứ.

– Này nhé! Hàng tháng người làm thuê cho quan lao động kiệt sức. Anh chỉ trả cho họ đúng với giá nhân công tại đây, họ nhận được một ngàn. Trong
khi đó, nếu quán của các bạn bán mỗi ngày chỉ ba bốn trăm Euro, sẽ thu lời ba bốn ngàn một tháng và người làm thuê sẽ suy tính ngay. Họ không bao
giờ nghĩ tới, điều kiện nào tạo nên chỗ làm cho họ, để biến toàn bộ thành số tiền trả trong từng thành viên trong quán? Người ta sẽ thấy khó chịu,
khi hàng tháng các bạn bỏ túi ba tới năm ngàn dễ quá. Tớ cũng ăn cắp khi làm thuê cho vợ. Bạn tớ cũng có người hôm nay ăn cắp của tớ. Mèo nhỏ bắt
chuột nhỏ. Phải có hai người chông nom quán. Kumar đi thì Quyên ở đấy. Không thể làm khác đi được đâu…

Hôm ấy, qua ý kiến của Phi, Quyên đắc thắng khi được ủng hộ, vậy là cô sẽ trở thành người lao động chính chả kém gì Kumar. Ừ việc bé như vậy mà nếu
không có Phi có lẽ cô còn giận dỗi Kumar dăm ngày nữa.

Ngày mang chiếc Imbisswagen về thật lúng túng, nếu không có Phi trợ giúp. Anh mượn ở đâu chiếc VW mười hai chỗ, mũi cá mập có sẵn móc kéo. Không có
Phi kéo giúp chiếc quán cơ động ấy, Kumar và Quyên sẽ phải tốn năm trăm Euro thuê người ta kéo về. Kumar không thể tự làm điều đó được, bởi vì lái
xe có moóc ấy lại có bao nhiêu dụng cụ, đồ lề nhà bếp, thật nguy hiểm ở đoạn cua trên đường đầy băng giá.

Trước khi khai trương một tuần, Phi đã mang tới tặng cho họ một chiếc tủ lạnh và một chiếc tủ đá đựng thức ăn. Hai thứ đó Phi mua ngay bên siêu thị
Rial. Vài việc như vậy của Phi làm Kumar hết sức ngỡ ngàng, cảm động. Anh cũng chẳng nói được một lời cám ơn Phi, cứ nắm tay Phi lắc mãi. Trong
thâm tâm, Kumar thực vô vàn biết ơn người bạn Việt Nam ấy, bởi anh thừa biết rằng, chẳng người đàn ông nào có thể vô tư, khi hàng ngày thấy người
đàn bà mình yêu trước đó đang hạnh phúc bên người đàn ông khác. Hình như Phi vẫn yêu Quyên, không thương nhớ bóng hình Quyên, sao anh lại nhanh
chóng lấy Quyên nhỏ, một người có cái tên và hình dáng giống Quyên? Những tình yêu thật sự bao giờ chẳng có sự hy sinh!

Hai tháng sau ngày khai trương cửa hàng, bao công việc nữa cứ tiếp nối dồn dập, làm Quyên có cảm giác quay cuồng như chong chóng. Rồi mọi sự cũng
dần quen và qua đi, quán hàng bắt đầu hoạt động nhịp nhàng. Với Kumar, công việc chẳng bõ bèn, vất vả gì. Anh vốn đã từng quen trận mạc với nghề
nặn bột, xào mì, lắc chảo, v.v… Sớm sớm anh dạy từ năm giờ, đạp xe ra quán và ngâm mì, thái hành, thái thịt, tay năm, tay mười cho tới tận tám
giờ sáng mọi việc mới hòm hòm. Quyên ra muộn hơn, bảy giờ cô mới cho Thanh Vân ăn xong, cô tất tả đưa con đi gửi nhà trẻ và đạp xe ra tới quán đã
gầm tám giờ. Với Quyên, phải đứng cả ngày trong quán bán hàng cô không sợ. Dù tuần lễ đầu tiên đôi chân cô mỏi nhừ, cứng đờ, tụ máu. Tuy nhiên
trong vài tuần lễ đầu tiên, cô hay luống cuống, mất cả bình tĩnh khi giờ ăn trưa tới, khi trong quán người xếp hàng rồng rắn đứng đợi, gọi vài món
ăn khác nhau là có thể làm cô lúng túng và nhầm lẫn.

Kumar xào mì rất thuần thục, anh lại nhanh nhẹn. Nhưng anh chỉ có hai bàn tay, hai con mắt nên không thể nổi lửa hai, ba chảo. Vả lại khi mà họ
kiên quyết làm đúng lời Phi dạy, phải xào từng đĩa mì cho khách, không xào một chảo mì lớn. Để giữ chữ tín, Kumar vẫn kiên nhẫn, bình tĩnh thao tác
sao cho có đĩa mì đậm đà, thịt gà trắng ngà, thơm phức mà chỉ quán của Kumar mới có. Chính vì thế, việc bán hàng lúc đông khách, đôi khi cứ rối
tung cả lên. Cứ chứng kiến vài buổi trưa mà xem, lúc thương khác cả dãy sốt ruột xếp hàng, mà thời gian ăn trưa của họ chỉ cho phép trong vòng hơn
một giờ đồng hồ. Người ta bảo rằng, tất cả các quán ăn nhanh của người Việt vào thời khắc buổi trưa, vợ chồng bán chung một quán là hay cãi nhau
lắm cũng đúng. Này nhé, chỉ cần một trong hai người chậm chạp, nhầm một tẹo là như đứt mất dây chuyền. May là Kumar rất đằm tính. Anh không bao giờ
cáu nhặng lên khi Quyên đưa nhầm món ăn cho khách. Quyên cũng cố gắng sao để thao tác ngày một thành thục. Cô cũng không nôn nóng, khi cô biết
rằng, nếu chậm chạp quá, hoặc nhầm lẫn vài lần, khách hàng có thể giận dỗi bỏ đi. Quyên và Kumar cũng có khi bất đồng vài điểm nhỏ. Nhưng cả hai
đều thống nhất tôn trọng một nguyên tắc, đó là sự bảo đảm tuyệt đối chất lượng, vệ sinh, sao cho các đĩa mì xào của họ đưa tới tay khách hàng không
gây ấn tượng xấu. Dân Đức cũng hay rỉ tai nhau lắm! Cô biết điều ấy.

Thật ra công việc bán hàng mới mẻ quá, vất vả túi bụi đêm ngày Quyên không ngại. Cô chỉ buồn nhất là mái tóc từng ngày từng ngày bết vào bởi dầu ăn
bốc lên khi đứng quán xào nấu cả ngày. Chẳng còn mớ tóc óng ả, mềm mại như xưa nữa. Mỗi chiều về gội đầu, cô hoảng sợ nhìn từng lọn tóc thi nhau
rụng xuống sàn nhà tắm, dù ngày nào cô cũng chít một cái khăn và đội mũ bếp cẩn thận. Lại khốn khổ nữa, dính vào cái nghề lắc chảo, cực nhất là
đang đứng bán hàng, lại phải chạy ra khỏi quán, vì một công việc đột xuất bất kỳ nào đó. Tỷ như mỗi lần vội về trường đón Thanh Vân, Quyên chẳng
kịp thay quần áo, khi ấy mùi Imbiss trong người cô, từ tóc tai tới quần áo, cứ nồng nồng, hôi hôi toả ra, làm nhiều hành khách trên xe bus đôi khi
nhìn cô tỏ ý khó chịu, tránh xa.

Họ thường đóng cửa tám giờ tối. Kumar dọn dẹp xong để trở về với Thanh Vân thì cũng chín giờ. May mà các buổi chiều thường vắng khách nên Quyên
được về từ bốn giờ chiều để đón Thanh Vân . Chơi với nó một lát, rồi hai mẹ con tắm táp, giặt giũ, cũng như nấu bữa tối, rồi đợi Kumar trở về. Đó
có lẽ là thời gian dù còn bận rộn, nhưng với Quyên nó vẫn có ý nghĩa nhất, như một sự thư giãn trong một ngày, khi cô được vừa làm bếp hay giặt là,
vừa đùa chơi, nói chuyện với con. Có lẽ cũng chẳng có khi nào được thư giãn một cách tuyệt đối, vì ngay sau bữa ăn tối, sớm nhất bắt đầu từ chín
giờ ba mươi tối, cả Kumar và Quyên đều đã mệt nhoài, vội lăn ra giường qua đêm. Và, sớm hôm sau họ lặp lại một ngày mới y nguyên như vậy.

Mấy tháng trôi đi, nhiều người làm việc trong các công sở quanh đó bắt đầu trở thành khách hàng ruột của quán Kumar. Điều đó thật quan trọng, bởi
vì nó ổn định về doanh số bán ra từng ngày, ổn định tương đối về lãi ròng của cửa hàng, mang về cho họ đều đều số tiền có thể tiết kiệm hàng tháng
hai, ba ngàn Euro.

Thời gian vùn vụt trôi đi.

Thanh Vân đã tám tuổi. Nó đi học lớp hai ở trường ngay gần nhà và có thể hát lau láu nhiều bài hát tiếng Đức và tiếng Anh.

Sáu năm rồi, Quyên đã có thể đứng bán hàng một mình, chẳng cần Kumar phụ giúp. Cô cũng nhận ra bao nhiêu điều mà nhiều khi ở Hà Nội có giàu tưởng
tượng tới mấy cô cũng không thể hiểu rõ cuộc sống của những người Việt kiếm sống và sinh hoạt ở nước Đức như thế nào. Việc bán hàng ăn thì cô rành
quá rồi! và sáu năm lăn lộn ấy, cô cũng biết thêm rằng, những người Việt, người Pakistan, người Thổ bán quần áo lang thang vất vả ra sao mới có thể
có được đồng ra đồng vào.

Năm ngoái Hội chợ thành phố mở ngay cửa siêu thị Rial. Ba bốn người Việt đồng hương của cô từ thành phố nào đấy chạy về mua chỗ đựng lều bày bán cả
trăm mặt hàng. Nào đồ lưu niệm, nào kính, bút, băng nhạc, giấy vở và quần áo treo phất pha phất phới. Cô làm quen với một thanh niên rất trẻ từ
Nghệ Tĩnh chạy sang đây với bà chị của cậu và làm chân phụ bán hàng. Trời lạnh âm hai mươi độ. Cậu bé ăn mặc ấm, nhưng lại đi đôi giầy thể thao.
Được dăm hôm cậu kêu đau chân. Cậu bảo, hôm nào cũng phải dậy từ 3 giờ sáng, chạy tới hội chợ đã bốn giờ, dựng ngay lều quán mới kịp đón khách vào
lúc 8 giờ. Ăn trưa ở quán , cậu thanh niên hơ nhờ đôi chân lên lò sưởi gas của Quyên đặt trước quầy cho khách đỡ lạnh. Mải nói chuyện, đôi tất của
cậu khô đi và bốc cháy trong chớp mắt mà cậu ta không biết. Hoá ra bàn chân cậu dằm trong băng tuyết từ bốn giờ sáng tới trưa trở nên quá tê cứng,
mất hết cả cảm giác. Một thực khách người Đức có mặt hôm ấy, lão già Stepan, bảo với Quyên: “Những người Á châu không có kinh nghiệm sống chung với
băng tuyết, cứ để chân lạnh sẽ làm thận hư đấy. Nếu nhẹ thì mắc bệnh thần kinh thực vật, sau này đau nhức khắp lưng”.

Gần một năm sau, rất tình cờ, trong Hội chợi thành phố nhân ngày Lễ trứng, Quyên gặp lại quầy bán quần áo của người chị. Không thấy người bạn trẻ,
Quyên hỏi thăm chủ quầy. Hoá ra cậu ta đã về nước. Tâm, cậu thanh niên ấy bị liệt một chân, sau mùa làm ăn Noel dài bốn tháng, mỗi ngày dầm chân
trong băng giá tới mười hai tiếng. “Nó được chữa trị gần năm tháng. Bác sỹ bảo, tới viện quá muộn, nó bị cắt một bàn chân và về Việ Nam rồi”. Ngay
khi đó, Quyên không hề hiểu vì sao người ta có thể vô trách nhiệm với chính bản thân như vậy. Mãi cho tới khi gặp Phi ở bữa ăn trưa trong hội chợ,
cô mới vỡ ra rằng, nhiều người Việt, chứ chẳng riêng gì cậu thanh niên kia, đều không bao giờ tìm tời bác sỹ khi bệnh tật mới có dấu hiệu ban đầu.
Chỉ tới khi phát bệnh nặng họ mới sử dụng bảo hiểm y tế, đến bác sỹ và lúc đó dẫn tới kết cục thường là vô phương cứu chữa.

Đêm hôm đó tới tận khuya, cô cứ chập chờn nhớ tới khuôn mặt trẻ trung của cậu thanh niên hôm nào. “Nó bị cắt một chân rồi” câu nói ấy cứ xoáy vào
tâm trí cô. Hình như nó, câu nói ấy, còn ở đâu đó xa thẳm vọng lên, để cô nghe rõ tiếng nạng gỗ chọc xuống hè đường Hà Nội. Tiếng dộng đục và vang!
Những âm thanh tròn và đều cứ lăn mãi trên đường phố, trên các viên đá lát vỉa hè sau thập kỷ bảy mươi, khi cô vừa hai tuổi, hôm nay lại vang lên.
Những âm thanh xa xôi ấy, bấy lâu tưởng đã tan theo thời gian, hôm nay lại có dịp vọng về.

“Như nhau cả thôi, ở đây mỗi kẻ tha hương, để đổi lấy những đồng ngoại tệ mạnh đều phải trả giá, kẻ thì cho đi hạnh phúc vốn mong manh, nhận lấy
những điều con chắp vá mong manh hơn, kẻ thì trả giá vì sự hiểu biết thiếu hổng về trăm ngàn kỹ năng sống cần có trên xứ lạ, tỷ như sự hiểu biết về
luật pháp, văn hoá, khí hậu và cả những quan hệ giữa các dân tộc mà mọi người cần cảm nhận sâu sắc trong cái thế giới vốn không ít cạm bẫy”.

Hai năm sau ngày mở quán, Kumar mua một chiếc xe VW Gold. Chiếc xe mới chạy được tám chục ngàn kilomet. Ô-tô còn thơm mùi ghế nệm, mùi sơ, si. Sớm
chủ nhật, cả nhà leo lên chiếc xe mới mua, chạy một vòng quanh thành phố, đi về phía những cánh đồng trồng rất bát ngát hoa bạch dương, cải và lúa
mì. Cuộc đời bắt đầu sáng ra dần chăng? Quyên nhìn ra cửa xe nghĩ. Nửa năm sau ngày Kumar mua ô-tô, Quyên cũng thi đỗ bằng lái xe. Thế là cô có thể
tự lái xe đi làm hàng ngày mỗi khi vắng Kumar, cô cũng chẳng lo giá rét.

Việc buôn bán Imbiss cũng ngày một hanh thông, thu nhập luôn ổn định làm cho Quyên thấy cuộc sống dễ thở hơn! Có đồng ra đồng vào, đôi khi cô cứ
tủm tỉm cười một mình.

Phần 13

Năm sắp hết. Sát Noel, Quyên có tin vui. Cô nhận được giấy cư trú chính thức. Tin ấy làm Kumar bất ngờ, tuy rằng trước đó nửa tháng, mẹ của Kumar
gọi điện báo tin, bà đã lo xong thủ tục, giấy tờ, có thể năm tới sang thăm một người họ hàng ở Anh và sẽ từ Anh sang Đức thăm con trai.

Kumar âm thầm dự định, nếu mẹ sang, Kumar sẽ thuyết phục mẹ, cho anh kết hôn với Quyên. Như thế theo luật pháp Đức, đương nhiên Thanh Vân và Quyên
cũng có giấy tờ định cư, chẳng cần phải chờ đợi để có giấy tờ ăn theo Kumar. Kumar vui lắm, vì Quyên có giấy tờ càng sớm càng tốt. Thanh Vân được
hưởng ngay thêm nhiều quyền lợi!. Nghĩ vậy, lập tức anh muốn ăn mừng sự kiện này, bằng cách mua chiếc máy điện thoại cầm tay Sony đời mới nhất tặng
Quyên.

Buổi tối ấy, Kumar trao cho cô chiếc hộp giấy đựng máy và cẩn thận cài chiếc sim nối mạng. Quyên ôm choàng lấy Kumar hôn nhẹ vào môi anh. Một ngày
những hai cái tin vui. Cô quyết định khai trương máy ngay. Cú gọi đầu tiên về Việt Nam dành cho mẹ cô.

Mấy năm gần đây, từ khi mở quán, có đồng ra đồng vào, tháng nào Quyên cũng gọi điện về cho mẹ một lần. Điện thoại bàn, gọi qua bưu điện chính của
Đức, hãng Telecom cũng tốn tiền, nên các cú gọi đều ngắn. Hôm nay lần đầu sử dụng máy di động, lại của Kumar mua tặng, không hiểu sao Quyên thấy
lóng ngóng, hồi hộp. Tự nhiên cô có cảm giác nôn nao nghe khi tiết tút tút kéo dài, lúc chờ bên kia đầu dây mẹ nhấc máy.

Mãi mẹ không nhấc máy. Hay là mẹ đi vắng? Hai tiếng sau cô lại gọi. Quyên đoán, thời gian này ở múi giờ Hà Nội, chắc chắn mẹ phải ở nhà ăn cơm tối.
Máy vẫn tút tút đều. Quyên hoảng sợ. Cô bấm số máy thứ hai, gọi điện về cho anh trai. Đầu máy bên kia máy vẫn tút đều. Lát sau mới có tiếng bé Mi
con gái đầu của anh trai cô nhấc máy. Hoá ra cả nhà cô đi ăn cưới con bác cả. Quyên thở phào.

Nhưng cả buổi tối ấy cô cứ bồn chồn lạ. Tính ra mẹ cô năm nay đã bảy mươi hai tuổi. Thấm thoát cô xa quê đã hơn tám năm. Tám năm nay chắc mẹ cô già
lắm. Tình huống vừa rồi làm Quyên chợt dạ. Người gìa vốn như ngọn nến lay lắt trước gió. Có lẽ cô phải thu xếp về thăm mẹ. Trước kia cô không được
phép rời khỏi nước Đức, bây giờ cô có giấy tờ rồi, cô sẽ trở về nước thăm mẹ. Phải về thăm mẹ thôi!

Bữa cơm tối, Quyên nói điều băn khoăn ấy với Kumar. Kumar nhoẻn miệng cười, thì về Việt Nam với nhau, có vấn đề gì đâu. Anh cũng chẳng biết Việt
Nam như thế nào. Nơi ấy có giống quê hương của anh không? Nếu về, họ chỉ có thể thu xếp vào hè này, vì dịp ấy Thanh Vân mới được nghỉ học.

Mùa đông kéo dài tới tháng tư mà Quyên cứ thấp tha thấp thỏm đếm lịch từng tuần mong hè tới.

Tháng Mười hai qua rồi tới tháng Giêng.

Bốn giờ chiều, tuyết bay mù trời. Quyên vừa đỗ xe trước nhà thì nghe tiếng còi giật giọng ba hồi. Ngoảnh lại, trên cái xe đỗ sau liền xe cô, một
thanh niên da vàng tóc đen cười cười mở cửa xe bước xuống, tiến tới Quyên.

– Chị có nhận ra em không? Người thanh niên lên tiếng.

Quyên nhìn anh ta. Cô lục lọi mãi trong trí nhớ, những vẫn vô vọng. Cô lắc đầu và mỉm cười lịch sự. Ở thành phố này, người Việt không quá đông,
Quyên cũng chẳng có quan hệ nhiều, nên cứ đoán rằng người thanh niên này sống trong thành phố mà cái vùng trí nhớ của cô bị khoanh lại hạn hẹp, nên
cô không nhận ra cậu ấy trong những người đã từng gặp chăng?

– Thế mà em vẫn nhận ra chị. Chị không thay đổi lắm! Người thanh niên có nụ cười rất quen.

Ơ hay, cậu ta là ai nhỉ? Quyên cố lục lại trí nhớ. Vô ích.

– Quả thật tôi không nhận ra anh. – Quyên lắc đầu ngượng ngùng nói.

– Em đây, thằng Minh, đệ tử ruột của đại ca Hùng đây mà. Chị quên em rồi ư?

Quyên giật bắn mình.

Dĩ vãng chợt ùa về như cơn bão tuyết chiều qua.

Cái xe thứ hai chở Quyên sâu vào nước Đức. Minh đăm đăm cầm lái, miệng như dán băng dính, không nói một lời suốt cả chặng hành trình…

Trong tiệm ăn ở quán xăng, Minh đã dịch cho cô nghe đoạn báo nói về tai nạn của Hùng. Bàn tay của Minh nắm lấy tay cô khi dịch hết đoạn tin viết
trên và, đôi mắt của cậu ấy nhìn cô khi tạm biệt, rời trại tị nạn để quay lại với Hùng…

Đúng là Minh, đệ tử ruột của Hùng.

– Anh Hùng đang bị bệnh. Bấy nay chúng em tìm chị ở khắp nơi. Vừa rồi may quá, qua một người bạn vẫn làm việc đưa đường, em biết chị ở đây. Anh
Hùng nhờ em tới gặp chị, nhân việc em đi sang Berlin đổ ít hàng đánh từ Việt Nam sang.

– Hùng bị bệnh gì?

Người thanh niên thản nhiên bật điếu thuốc. Cậu ta không trả lời vào câu hỏi của Quyên, nhẩn nha nói:

– Sau khi nằm viện, người ta cũng không thể cứu chữa được cái chân giập nát của anh Hùng. Sau thời gian ở Đức điều trị, họ tống anh ấy quay lại Ba
Lan. Chúng em đưa anh về Hung, trụ lại ở Budapest nghỉ ngơi nửa năm. Thật ra khi đó, sau tai nạn mất một chân, anh ấy có ý định muốn về Việt Nam,
vì tụi em cũng hòm hòm tiền bạc. Nhưng sau mấy tháng chạy giấy tờ, anh ấy bảo em rằng, tao toàn mơ thấy con tao thôi. Về thế quái nào được, chị ạ.
Có nhiều trận sau khi uống say bí tỷ, anh ấy toàn gọi tên chị và khóc. Anh ấy thề sẽ đi tìm con. Thế là thay đổi ý định. Anh Hùng mở một quán bán
hoa và thường xuyên nhờ bạn bè đi tìm chị. Đây, xin chị nhận thư của anh Hùng.Quyên nhìn chiếc phong bì phẳng phiu mà cậu thanh niên đưa đường năm
nào lấy ra từ chiếc cặp số bằng da đen. Thứ cặp này cô biết, trong những cửa hàng KDV, cô từng nhìn thấy chúng bày trên giá, dưới ngọn đèn chiếu
sáng nhỏ mắt cua với bảng giá cắt cổ, chỉ có thể bán cho các doanh nhân giàu có ở Châu Âu.

Quyên chậm rãi bóc thư. Trong đầu cô khi ấy tự nhiên lại hiện lên cánh rừng biên giới năm nào.

Cái chòi gỗ nom như tháp canh. Những tấm ván trần khép lại tưởng ghép như bưng mà vẫn dột, tí tách nhỏ nước ướt loang cả tấm thảm. Khu rừng miên
man chạy tận chân trời trắng xoá một màu…

Thoáng thế thôi mà đôi mắt cô không thể nhìn rõ những dòng chữ trên tờ giấy A4 trắng lốp. Quyên ngồi thừ ra, yên lặng vài giây, rồi gập thư như cũ,
nhét vào phong bì. Quyên đặt lá thư trên mặt bàn, vuốt nhẹ nó, dường như cho nó phẳng phiu thêm, rồi quay lại với Minh:

– Bây giờ cậu sống thế nào?

– Em không làm nghề đưa đường nữa. Sau khi anh Hùng bị tai nạn, em theo anh ấy về Budapest. Sống với nhau bao nhiêu năm trong rừng, em không đành
lòng bỏ anh Hùng, nên ở lại thành phố luôn và chuyển sang bán buôn quần áo.

– Buôn bán dễ sống hơn đưa đường đúng không? Mà nom cậu bây giờ đúng như ông chủ ấy! Cậu bán buôn hay bán lẻ quần áo? Quyên tủm tỉm cười.

– Em đánh hàng từ nhiều nước về Hung và từ đó đưa sang Tiệp, Ba Lan và Đức. Công việc đỡ nguy hiểm hơn và cũng luôn có điều kiện gần gũi anh
Hùng…

Câu chuyện của họ kéo dài tới hơn nửa giờ nữa, Minh bảo, phải trở lại Berlin cho kịp chuyến lấy hàng quay trở lại Hung. Quyên tiễn cậu ra tận ô-tô.
Cũng con người này đây năm nào cũng làm kẻ đưa đường với bao nhiêu phiêu liêu mạo hiểm ở cái khu rừng biên giới đầy bất trắc, chứa đựng bao nhiêu
sự khốn nạn của một kiếp người, một quãng sống. Bây giờ khuôn mặt câu ta tuy vẫn phong trần từng trải, nhưng quần áo phẳng phiu, cặp da láng mượt.
Chiếc áo măng tô dạ dài điểm những bông tuyết lấm tấm trắng trên vai áo dạ manto mềm, nửa nom như một nhà buôn hào hoa, nửa từa tựa như tay đồng
hương, tự xưng là thi sỹ, mà cô gặp đêm nào trên chuyến tàu đi Saint Peterburg đã đọc cho cô bài thơ Kẻ tha hương.

Quyên thở dài. Cô nhìn mãi theo chiếc xe Minh lái cho tới khi khuất bóng. Chiếc xe dần khuất, để lại hai vệt dài đem thẫm trên mặt đường đầy tuyết
trắng. Tuyết vẫn rơi dữ dội. Gió cứ miên man quất ngang quất dọc. Những bông tuyết mảnh mai ào ào trút xuống lấp dần hai vệt đen trong dáng chiều
dần tắt. Phía tây, mặt trời ửng đỏ chầm chậm chìm dần, những tia sáng quét ngang mặt đất, trải màu trời chiều xuống vệt xe mờ, xuống đường phố hun
hút và, mặt đất bỗn ửng lên giây lát, như có ai đó lại chợt đổ òa chậu máu loãng, lênh loang con đường. Quyên quay về. Trong bài thơ cũ âm âm:

…Kẻ tha hương tư lự

Gặp nhau giữa con đường

Những tâm sầu vạn xứ

Phút giây thành tri kỉ

Đứa mang mầu quê hương

Đứa nấc sầu thê lương?…

Lá thư đầu tiên của Hùng:

Budapest, ngày 21 tháng 1 năm 2005

Quyên và con thương yêu!

Anh đã biết mọi việc xảy ra với vợ chồng em sau khi em rời trại. Những việc đau lòng ấy của em, tất cả đều do anh gây nên. Đã nhiều đêm anh không
ngủ, rất ân hận về nhiều việc anh đã làm, nhất là việc anh đã giữ em lại trong rừng. Nhưng anh thật lòng yêu em. Em ơi, cũng chính tình yêu ấy giúp
anh hiểu ra rằng trên cõi đời này chỉ có tình yêu mới có thể giúp con người ta hạnh phúc. Anh yêu em và đã bao nhiêu năm ao ước có một đứa con. Vì
thế việc chưa được nhìn thấy mặt con đã giày vò, làm anh đau khổ nhiều năm nay. Người ta muốn có con, đâu như muốn có một cái áo đẹp, một cái nhà
hay một cái ô-tô. Một con người đã sinh ra trên đời và nó mang theo dòng máu của anh, vì thế sao mà anh có thể rấy bỏ trách nhiệm, nghĩa vụ cũng
như tình cảm với hòn máu ấy.

Anh tìm em mãi, nhưng không có một tin tức gì. Nay, qua bao nhiêu năm, chợt biết được tin em vẫn khỏe, làm ăn tốt, con đã lớn rồi và được ăn học tử
tế, anh rất mừng.

Em ơi, xin em hãy tha thứ cho anh. Ngàn lần tha thứ cho anh. Từ nơi xa xôi này anh quỳ xuống xin em và con tha thứ cho anh. Con người như anh, đã
phạm nhiều sai lầm, có việc đầy tội lỗi. Nhưng anh tin rằng em sẽ hiểu cho anh, hiểu cho một thằng đàn ông cũng muốn sống tử tế và lương thiện.

Bây giờ dù còn rất yêu em, nhưng quả thật anh không xứng đáng. Nguyện vọng duy nhất của anh là được gặp con một lần. Xin em hãy rủ lòng thương cho
anh có được điều ấy. Bây giờ anh không còn là một thằng bất lương, có thể làm mọi điều tệ hại đối với lương tâm. Nên sự cho phép của em là điều cần
nhất để anh có thể bay ngay sang Đức.

Xin hãy gọi cho anh về số máy…

Em ơi, xin hãy một lần thương lấy kẻ đầy đau khổ suốt bao nhiêu năm này.

Thư thứ ba của Hùng:

Budapest, ngày 29 tháng 2 năm 2005

Gửi Quyên và con,

Anh rất nóng ruột chờ tin của em. Em ơi, xin hãy tha thứ cho anh. Anh còn rất ít thời gian. Ba tuần nữa Minh sẽ sang Đức đổ hàng. Anh sẽ theo xe
cậu ấy. Xin hãy rủ lòng thương, cho phép anh gặp con.

Cầu trời cho em may mắn và hạnh phúc.

Địa chỉ… Số điện thoại….

Nguyễn Văn Hùng

Quyên bỏ lá thư thứ ba của Hùng vào ngăn kéo. Xếp nó cùng với thư trước của Hùng vào một nơi. Những lá thư của Hùng không phải không làm cô không
suy nghĩ. Nhưng cô không muốn gặp lại Hùng. Bấy nay cái vết thương ấy đã lên thành sẹo rồi, nước đã trong, quấy đục lên làm gì. Muốn hay không, mỗi
lần nhận được thư Hùng, cô vẫn trằn trọc, lại nhớ những gì đã xảy ra. Ký ức của riêng cô kỳ lạ, hay là ký ức của con người nói chung vốn kỳ lạ, khó
có thể nhìn nhận sự việc một cách rạch ròi? Chính cô cũng khó hiểu cô nữa thì còn ai hiểu được cô? Này nhé, biết bao nhiêu lần cô nhớ lại cánh rừng
và Hùng, vậy mà ở từng thời điểm và hoàn cảnh, sự hồi tưởng mang lại cho cô những cảm giác hoàn toàn khác nhau, thậm trí đối nghịch. Có lúc cô
thương hại, có khi cô căm thù Hùng tới xương tủy. Cô đã chẳng dùng lý trí để cố quên đi Hùng đó sao? Nhưng rõ ràng, thời gian và trí nhớ luôn công
bằng, khi cuộc sống giống như hồ nước đã lắng hết bùn cát, rác rưởi, cho người ta nhìn rõ lòng hồ. Những gì trong khu rừng ấy, Hùng đã làm cô căm
ghét, hận thù dần dần được thời gian làm nhòe đi và, điều quan trọng là sự hiểu biết, từng trải của cô trước năm ngàn nỗi cay đắng mà bao kẻ gây ra
khác còn tệ hại hơn, tàn nhẫn hơn, làm cô suy nghĩ thấu đáo, lý giải rõ ràng hơn những điều mà Hùng đã gây ra cho cô và sau đó anh ta ân hận. Có
thể chính vì thế, hôm nay, Quyên chỉ nhớ lại những gì tốt đẹp. Cô nhận ra những gì tử tế thuộc về bản chất của Hùng. Nhân chi sơ đâu chỉ là tính
bản thiện, hình như ông nội đã có lần nói như vậy. Dường như ở ai cũng có cái sợi chỉ, làn ranh mong manh trong con người, giữa ác và thiện. Nó vốn
dễ đứt tung trong những hoàn cảnh và môi trường sống khắc nghiệt, mảnh đất cực kỳ thuận lợi, để đêm nay anh là người tử tế, sớm mai anh đã là kẻ ác
độc trên đời. Hình như số phận đã trao cô cho anh để hành hạ và thử thách, và chính tiếng trái tim của con anh là cái phao cứu sinh đưa anh vượt
qua con sông khốn nạn quay lại bờ thiện bên này chăng?

Trong thâm tâm, giờ đây, hơn tám năm rồi, Quyên chẳng còn thù gét gì Hùng nữa. Thời gian cũng bao mùa thay lá, phủ xanh biết bao lần những cánh
rừng biên giới. Vả lại, Quyên nghĩ, suy tới cùng, Hùng cũng là một nạn nhân trong cái guồng quay phũ phàng của con tạo. Hùng chỉ là một người bình
thường. Mỗi người sinh ra đều cố gắng đi tìm hạnh phúc của mình, mà hạnh phúc lại là một khái niệm rất mơ hồ. Ở người này, nó là thế này, ở người
kia nó là thế khác. Cô cũng định viết vài dòng trả lời Hùng, nhất là khi nhận được lá thư thứ ba, khi đọc dòng chữ mập mờ: Anh còn rất ít thời
gian, song cô lại ném bút, vo giấy trắng không viết nữa. Viết cái gì? Viết có tác dụng gì, khi mà Hùng đã hoàn lương, không tham gia vào công việc
đầy nguy hiểm và tiềm ẩn bao tội ác trong đó. Thâm tâm, cô mừng cho việc đó, vì Hùng đã từ bỏ những tham vọng dựa trên công việc đưa đường, buôn
thuốc lậu, loại nghề đầy bất trắc, chẳng ra gì. Con người ta, sinh ra rồi lớn lên, ai chả có ao ước và ham muốn, nhưng nếu người ta biết vừa lòng
với những niềm vui nhỏ bé quanh mình, vui sống với những điều kiện có được tùy thuộc ở năng lực và hoàn cảnh, người ấy hẳn có đời sống hạnh phúc.
Quyên nghĩ như vậy, bởi theo cô, sống trên đời không nên ôm ấp quá nhiều tham vọng, vượt ra ngoài cái năng lực của mình. Con người ta, ai đó nếu
tin vào số mệnh chả hạn, thì mọi thành công hay thất bại, họ đều gán cho là tại số, nhưng nếu không có trời, thì mỗi cá thể cũng đâu chỉ lệ thuộc
vào riêng sự nỗ lực của cá nhân. Đời sống như con sông, con người như cỏ, như bèo, như cọng rác, lá khô, củi mục trôi, vật vã trên dòng sông ấy.
Người ta ngụp lặn và bơi. Nhưng sông luôn chảy, cuốn về một hướng, cũng như con người ta sống ở môi trường nào đều phải ít nhiều tham dự vào cái xu
hướng của môi trường ấy. Thật khó mà chánh khỏi. Có nghĩa là số phận của mỗi người phụ thuộc vào hướng phát triển, như một thân phận, của cả một
cộng đồng, xã hội. Đi ra nước ngoài, cô lại thấy đất nước chẳng thể tự thân quyết định vận mệnh mình. Quyên chăm chú theo dõi đọc những cuốn hồi ký
của các nhà báo, chính trị gia, những thước phim tài liệu… Nước Đức chia cắt và thống nhất chẳng đã minh chứng rằng, cả dân tộc này, dù đã mạnh
tới vậy, thân phận đất nước họ cũng phụ thuộc vào sự toan tính của những nước lớn hơn đó sao? Bấy nay, cô bị cuốn vào cái dòng xoáy của đời sống.
Hùng cũng như vậy, biết bao người như thế, dù rằng trong họ thiếu gì kẻ chống lại số phận. Có điều, khi mỗi người đủ mạnh, có thể bứt ra và trườn
lên, và khi có cơ hội sẽ vượt khỏi các vòng xoáy… Còn nếu không có sức mạnh và cơ hội, xin đừng có tí tởn nhé, hãy tìm những nguồn vui nho nhỏ,
làm cái lẽ tồn tại hay không tồn tại.

Vui sống, làm tốt một công việc trong guồng quay của cả xã hội, đấy là sống lành mạnh và có ý nghĩa, trước là cho bản thân mình, sau là hoàn thiện
mỗi công việc đơn lẻ, sẽ làm cả xã hội tốt đẹp hơn. Trên trái đất này, triệu triệu sinh linh, thậm trí cả nhân loại khao khát cái điều bình dị như
vậy, lẽ sống lại đa số đều như vậy, chứ đâu chỉ riêng cô.

Đôi khi, vô tình mở ngăn kéo, nhìn thấy thư Hùng, cô băn khoăn: “Bán hoa có vất vả lắm không, khi mà Hùng chẳng còn nguyên vẹn về thể xác?” Trên
đường phố, gặp những phế binh già Đức đi lại t rên chiếc xe lăn, cô lại chạnh nhớ tới Hùng. Cô tưởng tượng ra cảnh anh chống nạng, khuôn mặt cương
nghị, phong trần, rất đàn ông nhìn cô. Thoáng thế thôi và chỉ có vậy thôi mà cô lại thở dài. Buồn!

Cô cũng không muốn cho Kumar biết nội dung những lá thư này. Theo cô, người đàn ông nào đang yêu chẳng ghen. Kumar sẽ ghen về mối quan hệ huyết
thống giữa Hùng và Thanh Vân, chứ không phải Kumar ghen với Hùng, bởi tình cảm gì đó giữa Hùng với cô. Quyên hiểu rõ, Kumar hoàn toàn tin tưởng ở
cô; nhưng bấy nay, Kumar coi Thanh Vân như con đẻ, chăm sóc và yêu thương nó khác chi con đẻ, nếu cho Hùng gặp Thanh Vân, thì dù rộng lòng tới mấy,
Kumar cũng vẫn buồn. Sống với nhau, yêu thương nhau rồi, để người mình yêu buồn đâu phải là tốt. Chính vì thế Quyên không trả lời thư Hùng và cũng
không gọi điện thoại.

Đầu tháng Ba, thời tiết chập chờn quá, cứ hết bão tuyết lại bão gió. Bão gió khan, không mưa, không tuyết là khó chịu nhất. Từng đợt gió lạnh câng
câng, cuốn theo cơ man cát bụi làm con người ta có cảm giác, mọi vật trở nên cứng queo và cong cớn, khô xác. Ai cũng ngại ra đường khi thời tiết
chập chờn như thế. Việc làm ăn của Kumar và Quyên cũng kém hẳn, so với tháng trước Noel. Mấy ngày liền, nhiều bữa trời đổ tuyết dồn dập, Kumar liên
tục phải ra trước quán cào đám tuyết ngập trắng xóa. Quyên cũng phải lấy cát rắc khắp trước quán cho đường khỏi trơn. Nhưng chỉ nửa giờ sau, nơi
vừa rắc cát, tuyết lại phủ lên một lớp dầy. Cứ như thế, ngày nào họ cũng bận bịu trong nhớp nháp và ẩm lạnh.

Hôm ấy, vắng khách, Kumar chuẩn bị bán hàng sáng xong, để Quyên ở lại trông quán, rồi chạy xe về nhà. Chả là mười giờ sẽ có thợ nước của Công ty
nhà tới sửa cái vòi nước hỏng bấy nay cứ rỉ ra, nước nhỏ tong tong. Quyên không hiểu sao khi quay lại quán, nom Kumar có vẻ đăm chiêu lắm. Hỏi,
Kumar cũng chỉ cười bảo, chẳng có chuyện gì. Nhất định có chuyện đã xảy ra rồi! Ở với nhau hơn bảy năm nay anh lại chẳng chịu nói ra, mà vài lần
trong buổi chiều hôm ấy, cô phát hiện nét mặt Kumar trầm tư lạ thường. Một người luôn lạc quan như anh, hẳn phái có chuyện gì hệ trọng đã xảy ra
rồi, chứ chẳng thể nói là không có gì một cách trơn nhẫy như thế được.

Cả ngày thưa vắng khách. Chiều đến, ba rưỡi Quyên về sớm đón Thanh Vân. Đợt rét này, Thanh Vân được nghỉ đông. Không thể đóng cửa hàng lại để đi
chơi với con, mà để nó ở nhà một mình thì không yên lòng, vả lại luật pháp cũng không cho phép trẻ con ở nhà một mình khi nó quá bé, Quyên đành gửi
nó vào khu tạm trú của trường.

Vừa thấy mẹ, nó nhảy cẫng lên khoe hai bài tập nó tự làm, cái tranh một màu tập vẽ và bài tập tiếng Đức. Tranh nó vẽ thật ngộ! Tranh tả đề tài gia
đình. Thanh Vân vẽ Kumar cao lớn. Nó tô da Kumar đen nhãy, miệng cười rộng, ngoác tận mang tai. Còn nó thì bí xíu, mặt tròn xoe, người thì chữ
nhật, đi cạnh Quyên mặt tròn như cái đĩa và tóc nó ôm trùm hai bờ vai. Nhìn bức tranh ấy, Quyên vui. Bấy lâu nay Thanh Vân quấn với Kumar hơn cả
ruột thịt. Con người ta sự gần gũi, tình yêu đích thực trong tâm hồn là chất kết dính kỳ diệu nhất đối với con trẻ. Nó ríu rít bên Kumar như con
chim nhỏ. Nó có thể chơi cả buổi với Kumar và lại nghe lời anh ta hơn cả mẹ Quyên xinh đẹp. Thanh Vân gọi ba ơi rất nũng nịu. Nghe lời gọi ba ơi
của nó, nhiều lúc thấy tiếng trẻ sao mà diệu kỳ, có thể làm lòng người ta, kể cả khi bực dọc gì đó, bỗng trở lại thanh thản, ấm áp, hạnh phúc.

Mười giờ tối, Kumar mới về nhà. Chỉ nghe tiếng xe tắt máy, tiếng sập cửa xe quen tuộc là Quyên nhận ra rằng anh đã về. Quyên mở sẵn cửa như mọi lần
để Kumar có thể dũ cái lạnh giá và nhanh chóng vào nhà với không khí ấm áp chờ sẵn.

“Vắng khách sao mà anh về muộn vậy?” Quyên cởi áo khoác, phẩy tuyết cho Kumar và nhẹ nhàng hỏi. Kumar vẫn chỉ cười. Anh ôm lấy vai cô và âu yếm hôn
lên môi Quyên một nụ hôn như mọi lần. Nhưng rõ ràng, Quyên linh cảm thấy có điều gì bất ổn đang xảy ra với anh.

Mười một giờ đêm, họ lên giường. Kumar trằn trọc. Quyên cũng chẳng ngủ được. Trong đêm tối, nhìn sang, đôi mắt trăng trắng của anh cứ mở to trân
trân nhìn lên trần nhà. “Nói đi Kumar, có chuyện gì vậy?” Không thể chịu đựng được nữa, Quyên ôm choàng lấy anh và cất tiếng.

Kumar xoay người lại nhìn vào đôi mắt Quyên.

Anh đã yêu người đàn bà này tới say đắm. Nhưng chiều mai mẹ anh tới đây rồi. Người đàn ông Sri Lanka không được nói dối mẹ. Mẹ anh tới, nếu thấy
Quyên và Thanh Vân ở đây, tình huống sẽ ra sao, vì tục lệ về lời nguyền mấy trăm năm nay của dòng họ nhà anh, dòng họ Sinnatuerrai không tha thứ
cho kẻ nào lấy người nước ngoài. Tại đây, tất nhiên nước Đức không cho phép mẹ anh lôi anh vào rừng, chém đầu anh rụng xuống, như khi làm thịt dê
người ta dùng dao dài chém thẳng vào cổ cho cái đầu con dê bắn vọt ra [1]. Nhưng có thể mẹ anh sẽ đặt con dao xuống bên cạnh và cho anh và Quyên tự
xử. Những người dân tộc khác, khó mà hiểu được những người Sri Lanka, cũng như chẳng thể hiểu được mẹ anh. Bà thương con lắm, hết lòng vì anh và
chị anh, yêu thương chồng hơn cả chính mình, nhưng nếu ai vi phạm vào lời nguyền của dòng họ ư, khi ấy bà chỉ là bà góa của vị thủ lĩnh và hành xử
như bất kỳ người thủ lĩnh Sri Lanka nào. Anh hiểu chắc chắn. Quyên không thể tự cầm dao chấp nhận một cái chết vô lý như vậy ở xứ Đức này. Cô làm
sao có thể tuân thủ cái lời nguyền xa lạ ấy. Và anh cũng không thể nào có thể cầm dao chém vào cổ Quyên, cho dù anh có thể cầm dao đâm vào bụng
mình vì danh dự, vì điều thiêng liêng bất tử của vùng rừng Anura. Vì thế anh không thể để mẹ anh gặp Quyên tại đây . Kumar nghĩ, tính sau nửa tháng
anh sẽ thuyết phục được mẹ, nói đúng ra là cuộc sống hòa bình, nhân ái tại đây có thể cho mẹ anh thay đổi ý kiến. Anh có cách của anh mà.

Nhưng xử lý thế nào, nói ra sao để Quyên hiểu? Kumar thật bối rối. Suốt cả ngày hôm nay, từ khi nhận được cú điện thoại của bà bác từ nước Anh điện
sang, báo chuyến bay trở mẹ anh đã khởi hành sang Đức, Kumar suy nghĩ lao lung. Nói thế nào cho Quyên hiểu. Tìm chỗ nào cho mẹ con Quyên tạm lánh
đi ít ngày mà cuộc sống không bị xáo trộn?

Anh nghĩ tới Phi. Nhà Phi rộng. Phi bấy nay đối với anh và mẹ con Quyên vẫn tử tế, ân tình như xưa. Nhà Phi cũng gần quán và gần nơi Thanh Vân học,
rất tiện cho việc đón đưa. Phi có một nhà hàng lớn ở trung tâm thành phố, nhưng có nhiều thời gian rảnh vì anh thuê cả người quản lý. Vợ Phi vừa
sinh con, thuê cả người giúp việc, đứa trẻ lại khỏe mạnh, chắc không khó khăn, bận bịu lắm. Nhưng chắc gì Quyên chịu ở tạm bên đó. Thôi, bỏ ý nghĩ
ấy đi! “Mình sẽ thuê một phòng trong khách sạn nào đó cho mẹ con Quyên tạm thời ở đó, để thuyết phục và chờ sự đồng ý của mẹ”. Nhưng vốn là người
chi ly, anh cũng lo ngại, đắn đo không biết mẹ con Quyên sẽ xoay sở ra sao, nếu không ở nhà Phi mà lại ở khách sạn. Việc ăn ở, việc đi học của
Thanh Vân và cả việc bán quán nữa!? Bao nhiêu việc đan chéo nhau, không nhẽ anh phải đóng cửa quán một thời gian?

– Quyên này. Em vẫn thức chứ?

Quyên xoay mình, mặt đối diện Kumar. Cô đưa bàn tay lên, cào vào mớ tóc đã bắt đầud rụng mà hồi mới quen còn hơi dày, rậm như rừng của anh. “Nói đi
Kumar! Có việc gì làm anh lo lắng thế?”

– Ngày mai anh đi đón mẹ. Như em biết đấy – Kumar hắng nhẹ và thì thầm nói. – Tục lệ của nhà anh không cho chúng ta lấy nhau. Anh có thể thuyết
phục được mẹ anh. Nhưng chúng ta cần có thời gian. Không thể để mẹ anh nhìn thấy em và Thanh Vân trước khi bà đồng ý. Em hiểu không?

Quyên lắng nghe. Cô là người thông minh. Chẳng cần nói dài, cô cũng hiểu. “Vâng, anh nói tiếp đi. Vậy thì anh định thế nào?” Quyên rút tay ra khỏi
mái tóc Kumar.

– Em và Thanh Vân sớm mai tạm thời ra ở khách sạn. Anh đón mẹ và sẽ thuyết phục mẹ trong dăm ngày. Anh tin rằng, bằng những gì bà nhìn thấy ở nước
Đức này, một đất nước hoà bình, không có chiến tranh, bà sẽ có thể thay đổi quan niệm. Anh sẽ kể về Thanh Vân và em, để mẹ anh hiểu và đồng ý cho
đôi ta nên vợ nên chồng. Mẹ anh là người nhân hậu.

Quyên ngồi dậy. Cô nhìn ra ngoài cửa sổ.

Khi ấy tuyết rơi nhiều lắm. Những cơn gió cuốn theo cơ man nào tuyết trắng, nom tựa như có ức ức luồng sợi, chỉ bông đan nhau chằng chéo trong máy
dệt. Tuyết rơi nhanh, đua nhau chảy, tạo thành tấm lụa trắng xoá. “Không! Em không đi đâu cả. Đây là nhà của chúng ta”. Kumar cũng nhỏm dậy. Hai
người quay mặt vào nhau, nom hệt như hai bức tượng xếp bằng đối thoại trong đêm tối.

– Em không hiểu anh rồi! Nhà này của chúng mình. Anh có thể nói thế nào cho em hiểu nhỉ? Người đàn ông Sri Lanka không bao giờ nói dối mẹ cả. Thế
mà tình huống này buộc anh phải xử lý như vậy. Anh cần phải có thời gian để thuyết phục mẹ, nói cho mẹ hiểu! Em hiểu ý anh không?

– Hiểu, em hiểu chứ. Nhưng, một là em ở lại đây. Hai là em sẽ ra đi. Có vậy thôi! – Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm chung sống, Quyên cũng không ngờ
cô lại trở nên bướng bỉnh đến nỗi có thể nói như thế với Kumar.

– Sao? Em nói sao? Anh yêu em. Anh vô cùng yêu em và Thanh Vân. Nhưng ở hoàn cảnh này không thể làm khác đi được. Em không thể ở đây trước khi anh
thuyết phục mẹ. Mẹ sẽ nổi giận! Và, em không thể hiểu được đâu, việc của chúng ta sẽ gặp khó khăn!

– Vậy thì em và Thanh Vân sẽ ra đi! – Quyên cướp lời. – Chúng ta yêu nhau. Đây là nước Đức. Việc gì em phải chốn chạy? Thế hoá ra từ xưa chúng ta
cũng chỉ là những kẻ gá tạm để sống như trăm ngàn người đồng hương của em à? – Quyên muốn oà khóc.

– Không phải! Anh yêu em. Chúng ta đã gắn bó với nhau bao nhiêu năm. Chỉ có cái chết mới chia lìa anh và em được. Sao lại là gá tạm!

– Chỉ có cái chết mới chia lìa chúng ta thôi!- Anh nói như vậy, em tin được. Vậy thì mai em cứ ở lại đây, xem cái chết chia lìa chúng ta hay mẹ anh
chia lìa chúng ta? Anh chọn đi! Em hay là mẹ của anh? – Quyên nói một hơi.

Thực ra nói xong câu ấy, bản thân cô cũng thấy bất nhẫn. Nhưng bản tính hiếu thắng ở cô lúc này ít nhiều lấn lướt những gì hiểu biết của chính cô
về Kumar và cái tình mẫu tử của con người. Cô cũng yêu mẹ cô lắm. Kumar chắc chắn cũng yêu mẹ anh như cô. Cô cũng yêu kum, bảo rằng tình cảm nào
lớn hơn là điều không logic, không thể có sự so sánh trong phạm trù này được. Bởi vì tuy cũng là tình yêu, nhưng nó lại có những khác biệt không
thể đem ra cân nhắc, chọn lựa để mà nói ra ai hơn ai. Nhưng không hiểu sao việc Kumar xử lý như vậy lại làm cô cảm thấy như bị tổn thương nặng nề,
và điều ấy lại khó có thể lý giải cặn kẽ một cách thông thường. Ở đây rõ ràng có điều gì đó làm cả hai người đều rất khó vượt qua để cảm thông cho
nhau, tìm ra một giải pháp mà cả hai đều không bị tổn thương. Rõ ràng những câu chuyện của Kumar kể về quê anh, dòng họ anh, bình thường Quyên cũng
nghe qua, ghi nhận. Song thực tế, khi chạm hẳn vào nó như đêm nay, Quyên không thể nào đủ hiểu biết để thấu hiểu, hoàn toàn chia sẻ với anh. Không
thể làm như kế hoạch Kumar đã vạch ra! Cô sẽ ra đi ngay sớm mai.

Nghĩ như vậy, Quyên lại nói: “Thôi… ừ, ngày mai em sẽ ra đi”.

Kumar chưa hiểu hết câu nói của Quyên, anh cười lộ hàm răng trắng xoá: “Em đồng ý nhé, anh sẽ gọi điện ngay cho khách sạn đặt phòng”.

– Không em sẽ ra đi cho anh và mẹ anh khỏi phải gay cấn gì. Anh đừng thuê khách sạn!

– Sao, em nói sao. Ra đi? – Kumar ngồi nhỏm dậy. Khuôn mặt của anh vô cùng căng thẳng.

Quyên không nhìn vào Kumar. Cô ngước lên trần nhà trắng xoá. Quyên vẫn không thể hiểu vì sao dòng họ Kumar lại có thứ luật lệ kỳ quặc như thế, cho
dù một người đã phản bội lại dòng họ ấy.

– Em thực sự không hiểu! – Quyên bảo.

Kumar thở dài. Quyên không hiểu thì cũng đúng thôi, dù cô yêu anh tới bao nhiêu thì giữa anh và cô vẫn có khoảng cách khó lòng vượt qua. Đó là lần
đầu tiên kể từ khi họ quen nhau anh nhận ra sự ngăn cách hai người. Đúng rồi! – Anh suy nghĩ -Quyên không sống ở giai đoạn lịch sử của đất nước
anh, không trông thấy những cánh rừng Anura đẫm máu và cô không phải là người Sri Lanka, thì sao có thể hiểu dòng họ Sinnatuerrai đã sống bao đời
nay ra sao. Suy nghĩ và tập tục của họ như thế nào, để dẫn tới sự ra đời một lời nguyền, một luật lệ. Cô sinh ra ở Việt Nam, anh lại sinh ở Sri
Lanka, cả hai đều có những ý nghĩ và suy tư khác nhau, như những con đường mòn rẽ ra các hướng khác nhau, tới các vùng đất khác nhau.

Quyên nhìn trân trân vào bức tường trước mặt. Thực ra Quyên cũng tự biết, ở Việt Nam, không phải ai cũng có thể hiểu rằng, con người ta khác nòi
giống có thể yêu nhau bình thường, dù rằng trải qua bao nhiêu biến động của lịch sử, từ người Tầu tới người Pháp và Mỹ, chẳng thiếu gì những cặp vợ
chồng thuộc hai dân tộc khác hẳn nhau. Nhưng có lẽ cũng chẳng tới mức kỳ thị như điều Kumar đã nói, mà hôm nay, tại nước Đức này, cô và Thanh Vân
vì cái lệ tục ấy phải rời chính căn nhà của cô. Quyên không muốn nói nữa. Cô nằm xuống và nghiêng mình, quay mặt vào tường, giọng đầy dằn dỗi:
“Thôi anh ngủ đi, ngày mai còn đi đón mẹ”.

– Không! Kumar hổn hển nói trong đêm tối. – Em và Thanh Vân không thể bỏ anh đi được. Anh yêu em. Anh cũng yên Thanh Vân như con anh đẻ ra. Em biết
rõ ràng rồi, nó không phải là con anh thật, nhưng suốt bao nhiêu năm trời, từ khi lọt lòng, nó đã rơi vào tay anh. Anh thuộc từng hơi thở, từng nốt
ruồi nhỏ trên người nó, thuộc từ bàn tay tới ngón chân. Sao anh có thể chia rời nó được. Giờ đây nó là máu của anh, là thịt của anh.

Người phụ nữ thật lạ. Suốt bảy năm nay Quyên sống với Kumar, có bao nhiêu kỷ niệm vui buồn với anh. Cô cũng tự biết Kumar yêu Thanh Vân như thế nào
và bản thân cô cũng yêu Kumar vô cùng. Thế mà giờ đây, cô dường như chẳng nhớ những điều lớn lao, cốt yếu ấy trong quan hệ của hai người. Trong đầu
cô, chỉ đầy sự ấm ức, uất nghẹn. Tại sao cô phải rời bỏ ngôi nhà này? Giữa cô và mẹ anh, điều gì quan trọng hơn với Kumar? Cái tục lệ quái ác kia
sinh ra có thể đè bẹp được tình yêu của anh ư? Quyên không thể hiểu được Kumar, hay chính thứ tình yêu mà trong đó tràn ngập cái thuộc về sự chiếm
hữu giờ nổi lên ăm ắp trong cô, trong khoảnh khắc này đã làm cho cô không thể thông cảm, chia sẻ với Kumar. Lâu lắm rồi Quyên mới khóc. Cô quay mặt
vào tường, cứ để những giọt nước mắt lặng lẽ chảy, lặng lẽ âm thầm ướt đầm gối.

Sớm hôm sau.

Họ dậy muộn. Mười giờ máy bay hạ cánh. Thấy Quyên không chuẩn bị đi đâu cả nên Kumar cũng không nhắc lại ý kiến của anh đã bàn với Quyên đêm qua.
“Thôi, tuỳ cô ấy vậy!” Đấy là lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm phiêu bạt, Kumar đầu hàng hoàn cảnh. Anh hôn Thanh Vân và hôn Quyên rồi ra xe, lên
sân bay đón mẹ.

Kumar đi rồi, Quyên mới thấy lòng tự nhiên chống lạnh, đau đớn, Quyên chợt nhớ tới khuôn mặt của mẹ. Cô nhớ tới cú điện thoại gần đây và nỗi lo
lắng của cô trước tuổi già của mẹ. Cô biết, Kumar cũng yêu mẹ anh như cô yêu mẹ cô. Vậy thì việc cô ở lại đây, thách đố hoàn cảnh liệu có đúng
không?

ừ, mình ở lại đây thực là bất tiện cho Kumar. Anh ấy sẽ ăn nói thế nào với mẹ? Tất nhiên mẹ anh ấy sẽ nổi giận và chắc chắn, để bảo vệ mình, tình
cảm giữa anh ấy và mẹ sẽ tổn thương nghiêm trọng. Nhưng cô lại không thể chấp nhận phương án rời khỏi nhà để đi ở tạm khách sạn mà Kumar đã chọn.
Cô là một phụ nữ đàng hoàng, không việc gì phải chốn chạy khuất tất như thế. Vậy thì cô nên bỏ đi đâu đấy, chỉ một thời gian, xem Kumar sẽ xử lý ra
sao và, cũng là để thoát khỏi tình trạng có thể gây tổn thương lớn cho Kumar, nếu cô ở lại nơi đây. Đi đâu? Đi đâu không cần biết, phải nhanh chóng
rời khỏi nơi đây, trước khi mẹ Kumar xuất hiện.

Trong đầu Quyên khi ấy vụt nảy một ý định. Quyên nhanh chóng thu xếp giấy tờ, thẻ ngân hàng, một ít tiền mặt cùng quần áo của Thanh Vân và của cô
rồi ném tất cả vào chiếc va-li năm ngoái Kumar mua để học du lịch hè sang Tây Ba Nha. Mở cái ngăn kéo lấy vài thứ giấy tờ cần thiết, cô chợt nhìn
thấy ba lá thư của Hùng. Tự nhiên Quyên cầm lá thư thứ ba và đọc. Lá thư ngắn quá, lại nói anh ta chẳng còn thời gian nữa. Sao lại viết như vậy?
Anh Hùng sẽ đi đâu, hay có chuyện gì nguy hiểm đang chờ anh ấy? Cô bỗng cảm thấy bất yên, bồn chồn. Quyên nhét lá thư vào túi xách tay.

Mười một giờ kém mười năm. Chắc chỉ còn nửa tiếng nữa Kumar về tới nhà. Quyên bấm số điện thoại gọi Taxi, rồi kéo va-li, dắt tay Thanh Vân rời khỏi
căn nhà.

Chiếc Taxi tới đón Quyên khá nhanh. Người lái xe mau chóng giúp cô đưa chiếc va-li kềnh càng vào sau xe. “Bà đi đâu? Chiếc xe rất giống xe của Phi.
Đệm xe cũng màu da ấy, mùi xe ấy có lẽ làm cô nhớ tới Phi khi đó.

Ngồi ở nghế sau, Quyên nói địa chỉ của Phi như một cái máy.

Phi bây giờ chắc đang ở nhà một mình. Trong đầu cô nhớ bữa gã tới báo vợ hắn sinh con trai đầu lòng. Xe chạy. Giọng nói của Phi âm âm đâu đây.

– Tôi khóc suốt cô ạ. Vợ tôi đau đẻ hơn mười tiếng. Người ta cho phép chồng vào bên vợ khi sinh nở. Bác sĩ bảo, vợ ông sẽ có thêm sức mạnh đấy!

Người đàn bà vượt cạn, mỗi lần là một lần bước vào cõi tử.

Cô ấy đau đẻ, bắt đầu là râm ran rồi sau đó là những cơn đau dồn dập, mau hơn, tới khi cô ấy đau ghê ngớm, quằn quại trên giường đẻ. Tôi đứng bên
không rời, nắm lấy bàn tay vợ tôi. Thai ngược. Ông bác sĩ đỡ vợ tôi hôm ấy quyết định không mổ. Người ta bảo, mỗi lần mổ là một lần giảm tuổi thọ.
Tôi để ý, trên giàn máy bên cạnh để truyền huyết thanh, thuốc men có hai cái đồng hồ. Hỏi ra biết, một cái đo nhịp tim cho thai nhi, một cái đo
nhịp tim của vợ tôi. Chị y tá bảo, dưới 50 là nguy hiểm. Gần hai chục phút, vợ tôi đã cố gắng lắm mà đứa trẻ như mắc ở đâu đó. Hơn nửa giờ, nhìn
tối cả mắt, dưới háng vợ tôi có cả một chậu đầy máu và phân. Cô ấy thật sự tàn sức. Mãi sau, ông giáo sư đã xoay được thai và dùng cườm tay miết,
đè mạnh, trượt lên bụng vợ tôi cho đứa trẻ ra. Cố lên, nín hơi, rặn nào! Bác sĩ trợ giúp động viên. Tôi vừa nhìn thấy cái cánh tay tím ngắt của
thai nhi tòi được ra thì vợ tôi hoàn toàn kiệt sức, không sao rặn tiếp được. Quyên biết không, khi đó, tôi chợt nhìn vào hai đồng hồ, cái đồng hồ
chỉ nhịp tim con tôi tụt xuống sát 50. Nguy hiểm. Tôi lập tức nắm chặt bàn tay vợ, ghé sát miệng vào tai vợ, nói trong đầm đìa nước mắt: “Em ơi,
con đã sắp ra rồi. Em gắng rặn một lần nữa, không con chết mất”. Trời ạ! Vợ tôi chợt mở mắt ra, nom rất tỉnh táo. Và cô ấy mín môi, rướn cong người
lên, nín thở, nhăn hết cả mặt lại, rặn mạnh khi lưỡi dao của giáo sư cũng vừa chích mở cửa mình.

Con tôi vọt ra, mình nó đầy máu và chất nhớt vàng nhờ nhờ trên đôi tay của ông giáo sư. Tôi òa khóc. Khóc nức nở khi thấy vợ tôi lả đầu, nhắm
nghiền mắt. Em ơi, em ơi, tôi gọi. Ôm lấy cô ấy, tôi chẳng ngượng ngập gì. Tôi lay vợ và khóc. Các y tá và bác sỹ cũng mau chóng làm gì đó trên máy
giúp vợ tôi. Cô ấy bỗng mở mắt ra cười méo mó. Trời ơi! Em tỉnh lại rồi, dậy mà xem nhìn con em ơi. Tôi hét lên và đáp đầu vào ngực trần của vợ, kệ
cho nước mắt chảy trên đó. Cánh tay cô quàng lên ôm lấy đầu tôi .

Quyên không biết, tôi đã ở trên biên giới, phục vụ hơn một năm ở chiến trường phía Bắc. Tôi cũng từng bị thương. Nhưng không có sự đau đớn thân xác
nào có thể ví với sự chịu đựng đau đớn kéo dài của người đàn bà khó đẻ, lần đầu tiên, lại thai ngược. Quyên đã liều chết sinh cho tôi một đứa con.
Tôi bế đứa con tôi từ tay các bác sỹ. Vài phút trước đó, nó tím tái, chỉ còn mỗi đôi môi hơi hồng. Sau khi lau sạch sẽ cho nó, bác sỹ đã trao lại
cho tôi. Tôi đặt con lên ngực vợ…

Giờ đây tôi yêu cô ấy. Tôi vô cùng yêu cô ấy rồi.

Quyết định tới nhà Phi lúc này là không được! Anh ta chắc bận lắm và còn tình yêu của anh ấy nữa. Mình nhờ vả khi này, cô Quyên nhỏ sẽ không vui.
Như một cái máy, Quyên đổi hướng: “Ông vui lòng cho tôi lên Berlin”. Cô lục túi lấy tấm danh thiếp ghi địa chỉ đệ tử của Hùng. Đây rồi. Quyên đọc
địa chỉ kho hàng của Minh cho người lái taxi. Cô đánh vần từng chữ, để ông ta nhập tên phố vào máy dẫn đường.

Điện thoại reo. Quyên cầm máy lên. Cái tên Kumar nhấp nhánh xanh. Cô tắt máy.

Quyên nắm tay Thanh Vân. Con bé không hề biết gia đình nó đang có chuyện. Nó nhìn ra ngoài trời, ngây thơ hỏi: “Chúng ta không chờ Papa à?”, “Papa
bận, mai đi con ạ!” Lần đầu tiên Quyên nói dối con.

Tuyết vẫn rơi, nhanh và rối tung, hỗn loạn khi có con gió nhẹ lướt tới. Chiếc cần gạt kính trước, sau xe chạy nhanh như giật. Đường phố chập chờn
và trở nên hun hút trong tuyết trắng.

Chiếc xe của Kumar nhè nhẹ tiến sát hè, rồi đậu lại. Những bà già Đức, sống ở các căn hộ trên dãy phố nơi Kumar sống, thường ngồi sau rèm cửa sổ
nhìn ra ngoài trời ngắm phố suốt ngày, trưa đó nhìn thấy một người đàn bà trạc hơn sáu mươi tuổi bước từ ô-tô xuống hè và nhìn lên gác theo hướng
Kumar chỉ. Bà ăn mặc tựa trang phục Sari của những người đàn bà ấn mà họ hay bắt gặp trên những thước phim. Chiếc khăn rộng chùm đầu của bà màu
mận, in những bông hoa lớn sắc thanh nhã, che gần khuất nửa khuôn mặt có vẻ hanh hao nhưng thanh tú. Người đàn bà ấy là mẹ của Kumar vừa từ Anh bay
sang thăm con trai. Hơn ba mươi phút, xe của Kumar đưa bà về nhà, lướt qua các đường phố chưa kịp để bà nhận ra một đất nước thanh bình đã năm mươi
năm nay, nó khác hẳn quê hương bàn nơi nội chiến triền miên và đầy bất ổn bởi các cuộc tranh chấp đọ súng giữa quân đội chính phủ và phiến quân.
Những con hổ giải phóng Tamil.

Kumar vác chiếc va-li của bà phăm phăm đi trước. Anh leo rất nhanh lên ba tầng gác, bởi vì anh rất nóng ruột khi tin rằng mẹ con Thanh Vân còn ở
đó. Anh và mẹ đã trải qua cơn xúc động tại sân ga. Nhưng sau những giây phút vô cùng cảm động ấy, sự lo lắng về việc trong nhà anh có một phụ nữ
ngoại quốc làm anh bồn chồn và trong thâm tâm, Kumar hoàn toàn bế tắc.

Kumar hồi hộp mở cửa căn hộ của anh. Trong nhà không có một tiếng động. Vẫn hy vọng Quyên có nhà, Kumar rón rén đi vào phòng ngủ, phòng ăn và phòng
khách. Ngôi nhà hoàn toàn vắng lặng. Ban sớm anh muốn mẹ con Quyên tạm rời nhà ra đi, bây giờ trở về không thấy họ, tự dưng anh linh cảm Quyên đã
bỏ anh đi. Kumar đứng như trời trồng ở giữa nhà. Lòng anh bối rối như tơ vò, tràn ngập thất vọng và đau khổ. Nhưng dù sao chăng nữa, việc không có
mẹ con Quyên ở đây cũng là cơ hội để Kumar có thời gian thuyết phục mẹ. Anh cũng hy vọng chắc Quyên giận anh mà bỏ đi dăm hôm thôi, vả lại nước Đức
đâu quá lớn để anh không thể tìm thấy mẹ con cô? Nghĩ như vậy, Kumar thấy vợi đi chút ít lo lắng và phiền muộn.

– Mẹ nghỉ ngơi một chút! Con đi pha trà mật ong cho mẹ uống nhé! – Kumar đưa mẹ tới bên sô-pha và mời mẹ anh ngồi.

Người mẹ, bà góa phụ của thủ lĩnh dòng họ Sinnatuerrai ngồi xuống ghế đệm. Bà hơi ngả người ra phía sau và ngắm nhìn con trai. Màu huyết dụ của tấm
sari nổi bật trên nền chiếc Sô-pha vàng nhạt làm cho khuôn mặt của bà càng trở nên quý phái. Bao nhiêu năm nay, cuộc chiến triền miên đã làm cho
gia đình bà tan nát, con cái phiêu bạt. Thằng Kumar của bà rõ ràng là một dũng sĩ. Nếu Sri Lanka không rơi vào cuộc chiến nồi da xáo thịt, Kumar
thực sự sẽ có thể thay thế chồng bà cai quản thảo nguyên, những cánh rừng, đồng ruộng và súc vật chẳng kém gì cha. Thế mà giờ đây, nó lại sống
trong ngôi nhà tù túng thế này? Trong lòng bà khi ấy trào lên niềm thương sót Kumar vô biên, bởi vì theo bà, người đàn ông Sri Lanka không có niềm
hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc khi làm chủ một cách kiêu hãnh thảo nguyên và những cánh rừng, được túng vó ngựa chạy như lốc cuốn mà không hề biết
run sợ.

Kumar bừng li trà ra mời mẹ, rồi ngồi xuống cạnh bà. Anh nắm lấy tay mẹ. Run run sờ lên những sợi gân xanh tím trên nước da không đen như bóng đêm
của Kumar . Nước da của người đàn bà tựa như mật ong rừng ngả màu nâu sậm. Bấy lâu nay, anh xa mẹ biền biệt, giờ gặp lại trong hoàn cảnh này, anh
vừa mừng vừa lo. Từ nãy anh vẫn kín đáo xem xét và cất giấu tất cả những vật dụng, để bà có thể nhận ra, có một phụ nữ đã từng ở đây. Anh không
phải là kẻ dối trá, anh chỉ là người chưa nói hết sự thật với mẹ mà thôi.

Hơn hai giờ đồng hồ nữa trôi đi với bao nhiêu câu chuyện về quê hương, cả về hoàn cảnh sống không tới nỗi nào của Kumar, xen trong dăm câu hỏi đi,
đáp lại về quê hương của con người, họ tạm dừng hàn thuyên, có thể sẽ bất tận, nếu Kumar không chợt nhớ ra bữa cơm trưa sắp tới.

– Kumar muốn tự tay nấu cơm mời mẹ. – Anh nói với mẹ như vậy và chạy ra bếp.

Kumar muốn gọi điện cho Quyên. Mấy lần anh bấm số máy, rồi lại tắt. Nhỡ mẹ nghe thấy thì sao? Anh không muốn ngay từ hôm đầu tiên sum họp, mẹ phải
nghe thấy anh nói một thứ tiếng lạ hoắc.

Người mẹ đứng dậy, bà ngắm bức tranh tường của con. Đi ra ban-công, bà đứng yên một lát ngắm cánh đồng cỏ phía trước nhà, rồi lại quay vào phòng.

Nó ăn, ngủ, sống ra sao? Bà quan sát các vật dụng trong nhà, vào một phòng ngủ nhỏ, rồi đẩy cửa vào phòng kế. Đấy là phòng ngủ.

Chiếc giường rộng, nệm êm, trải drap. Bà ngửi thấy mùi thơm phức từ tấm drap xông lên. Ừ, con trai của bà sống không tới nỗi tồi! Ánh mắt của bà
chợt dừng lại ở chiếc tủ con kế bên giường. Cái gì thế này? Một đôi tất trẻ con. Bà bước tới, cúi xuống, kéo ngăn kéo. Vài ba thỏi son và một chiếc
lược đàn bà nhỏ. Bà kéo ngăn kéo thứ hai, rồi ngăn kéo dưới cùng. Vài tờ giấy xếp gọn ghẽ và ở ngăn dưới cùng có một xấp ảnh. Tấm ảnh trên cùng
chụp thật rõ. Ảnh màu chụp một thiếu nữ rất đẹp. Ai đây? Bà nhón tay, chậm lật từng chiếc một trong tập ảnh. Những tấm ảnh màu chụp Kumar và Quyên
cùng Thanh Vân lần lượt hiện ra trước mắt bà với nhiều khung cảnh, nhiều tư thế. Tất cả mách bà rằng, Kumar, con trai bà và hai kẻ khác lạ kia thân
thiết như thế nào.

Trời phật ạ, sao lại thế này? Ai cho phép con bà ăn ở thế này? Họ đi đâu rồi? Con bà giấu họ ở đâu. Rõ ràng có mùi trẻ quanh quất đâu đây. Đôi tất
kia! Mùi hương của trẻ con cho bà cảm nhận không thể sai lầm rằng, con bà đã vi phạm vào lời nguyền của dòng tộc.

– Kumar! – Bà gọi con.

– Mẹ gọi con? Kumar nói vọng từ bếp vào.

Bà đứng dậy, chầm chậm bước ra, tiến tới cửa phòng bếp.

Bấy giờ Kumar đang tay dao tay thớt làm món gulat quê anh đãi mẹ. Anh vẫn nhớ ngày xưa mẹ thích ăn món này. Vả lại, anh hiểu rằng, người già thường
yếu răng, nên món gulat thịt ninh mềm sẽ làm mẹ ngon miệng hơn.

– Kumar những chiếc ảnh này là thế nào? – Mẹ Kumar đứng trước cửa bếp đưa tấm ảnh ra trước mắt con.

Kumar thật sự hoảng hốt. Sao anh chủ quan như vậy. Chiếc thìa gỗ anh đang cầm rơi xuống nền nhà.

– Thưa mẹ…- Anh nói ấp úng.

– Vào đây, vào đây, Kumar! – Người mẹ già lôi tay Kumar vào phòng khách và vất tập ảnh xuống bàn và bưng mặt. Bấy lâu nay, hai mẹ con xa nhau biền
biệt, cuộc chiến trên quê hương bà liên miên bao nhiêu năm, làm biết bao gia đình tan nát, ly tán. Mấy đứa con bà chạy đi khắp nơi trên thế giới.
Riêng Kumar bà luôn tin tưởng có ngày con bà sẽ trở về. “Nó sẽ lại cày trên mảnh đất của ông cha và làm rạng danh dòng tộc”. Vậy mà ở đây, nó lại
vi phạm vào lời nguyền thiêng liêng của dòng họ.

– Hãy nói đi, bây giờ ta chừng phạt con thế nào?

Kumar hiểu tất cả. Như vậy mẹ anh đã biết. Những tấm ảnh chụp cùng Quyên và Thanh Vân đầy các kiểu, nhiều tư thế thân yêu biết bao nhiêu. Anh định
vài ngày nữa sẽ nói, bây giờ hẳn bà nổi giận lắm. Nếu giờ đây hai mẹ con ở trên đất quê anh, hẳn một vài người trai tráng sẽ theo lệnh bà lôi anh
vào cánh rừng Anura. Nhưng người đàn ông Sri Lanka quê anh không bao giờ nói dối mẹ.

Kumar quỳ xuống:

– Vâng, đây là người con coi như vợ. Bấy nay chúng con đã sống chung với nhau.

– Con nói sao? – Người mẹ già không muốn tin. Giờ thì thật quá rõ ràng. Chính từ miệng con trai của bà, đã nói ra. Dòng máu duy nhất của dòng tộc
anh hùng và kiêu hãnh đã vi phạm lời nguyền. Bà ngửa mặt lên. Không có đau đớn nào hơn thế nữa.

Kumar nhìn rõ mặt mẹ anh. Nhìn rõ thân hình gầy guộc, hanh hao của bà, những ngón tay gầy và bàn tay đầy gân xanh. Anh cũng đau khổ vì anh thương
yêu mẹ anh vô cùng. Nhưng anh cũng yêu Quyên và nhất là yêu Thanh Vân. Cuộc sống sao lắm bất hạnh và bấp bênh. Bây giờ Quyên đã ôm con bỏ đi. Như
vậy anh thực đáng bị trừng phạt. Nhưng anh tin rằng, mẹ con Quyên không có tội. Cô ấy đáng được anh cưu mang và cần được bênh vực. Cô ấy không phải
là người ngoại tộc có thể gây tang thương cho dòng họ của anh. Nghĩ và tin tưởng tuyệt đối như vậy, Kumar bỗng thấy có một sức mạnh ghê gớm và đứng
dậy chạy ra bếp. Anh cầm ngay lấy con dao nặng, sáng lạnh và rất sắc, chuyên để chặt xương, rồi chầm chậm bước vào phòng khi mẹ anh đang ôm mặt.
Anh quỳ xuống trước bức tượng phật, đặt con dao trước mặt. Đầu cúi gục. Trong trái tim anh như thể đã có ai bóp nghẹt khi anh nhớ tới khuôn mặt
Quyên, khuôn mặt bé thơ của Thanh Vân. Rất bình tĩnh anh nói:

– Con xin mẹ hãy nghe con nói. Con đã phạm phải lời nguyền của dòng họ anh hùng Sinnatuerrai. Con đáng để mẹ thay mặt quyền lực của lời thề mà xử
phạt con như luật lệ. Nhưng mẹ ơi, mẹ hãy nghe con nói. Bao nhiêu năm nay rời đất nước, con vẫn gìn giữ vật duy nhất mẹ trao gửi là bức tượng phật
thiêng liêng kia. Con không mang theo những cánh rừng, thảo nguyên và súc vật. Con không mang theo châu báu và những lưỡi kiếm. Con nhớ lời mẹ,
ngày nào cũng an tĩnh, nhớ lời Phật ạ. Con cũng nhớ lời dạy của người Sri Lanka, theo đức Phật dạy, không bao giờ ngoảnh mặt trước một đồng loại
đang cần cứu giúp. Cũng như mẹ từng dạy, nếu con quay lưng trước một đồng loại đau khổ thì con giống như loài dã thú ở trong rừng. Trên cái xứ sở
này, cô gái ấy gặp bao nhiêu nỗi oan khuất và cần đến trái tim của con người…

Giọng Kumar đầy xúc động. Anh vắn tắt thuật lại tình cảnh của Quyên. Những oan khuất của Quyên. Giọng anh mỗi ngày một lạc đi khi nước mắt anh rơi
chan hòa:

– Mẹ biết tới đây, cô ấy muốn tình mẹ con không tổn thương, đã bỏ đi rồi. Cô ấy đi đâu, ở giới đầy cạm bẫy và khốn khiếp này? Nếu mẹ thấy việc làm
của con thuận với lời Phật dạy, lời của mẹ dạy, xin mẹ hãy hiểu rõ co cô ấy. Bây giờ con xin mẹ hãy thực hiện lời thề của dòng họ chúng ta đi. –
Kumar mím môi. Anh cúi đầu thấp nữa xuống cho cái cổ anh lộ rõ. Những lọn tóc dài của anh xõa xuống, để lộ bê trong mái tóc, nơi sát gáy, có biết
bao nhiêu sợi tóc đã bạc.

Người mẹ già, trong phút giây ấy, nhìn rõ những sợi tóc bạc của con trai bà.

Trời ơi, con trai bà ngày nào ra đi, tóc nó xanh thế ! Mình vẫn coi bấy lâu nay nó là trẻ con. Mãi là trẻ con. Thế mà gần hai mươi năm rồi, tóc nó
đã bắt đầu bạc như cha nó. Hóa ra giờ đây, nó đã là một người già. Bà bỗng thấy kinh hãi. Các cuộc nội chiến liên miên đã đẩy gia đình bà ly tán
khắp thế giới. Thương nó quá, Kumar của mẹ. Cô gái ấy đi đâu? Con bà yêu cô ta và cũng lang bạt sang tận đây. Bà nhìn con, rồi nhìn ra ngoài cửa sổ
lớn.

Khi đó bão tuyết trắng xóa, nổi lên bất chợt. Những sợi tuyết cứ nối nhau, trùng trùng đan nhau rơi khắp mặt đất và, gió mạnh hu hú như có từng đàn
chó sói tru dài trên các cánh rừng Anura. Bà rùng mình, quay lại nhìn đứa con trai vẫn rục đầu xuống. Trái tim bà chợt thấy như có ai bóp
nghẹt. Bà gục xuống.

Phần 14

Thực ra Quyên chẳng dự tính đi dài ngày. Cô bước vào cuộc ra đi, chỉ dự định cách xa Kumar ít hôm, xa anh ấy khi mẹ anh ấy còn ở đây! Điều ấy xuất
phát từ sự hiểu biết của cô, những nhận thức tiềm ẩn bao nhiêu năm trong cô xa lạ với những gì Kumar diễn giải về phong tục và tập quán của một
dòng họ. Cô ra đi cũng một phần vì hiếu thắng và tự ái, không muốn làm theo kế hoạch của Kumar sắp đặt. Sự ương ngạnh của đàn bà thường đẩy tới
việc cứ đi, mà chẳng biết đi đâu. Nhưng trên đời này, những dự tính mông lung như vậy, đôi khi giống cái xe trượt của trẻ em chơi trên các dốc
tuyết. Không ai đoán được nó sẽ lao về đâu khi không có bánh lái của lý trí.

Cũng không mất thì giờ lắm khi tìm tới kho hàng của Minh. Một thanh niên lạ mặt coi kho gọi điện cho Minh: “Anh ấy đi vào khu bán buôn từ trưa!”

Cũng phải chờ tới hơn tiếng đồng hồ. Minh đang thanh toán tiền hàng trong khu bán buôn Rihn.100, nghe tin Quyên tới, hớt hải chạy về.

– Chị mới nhận thư của anh Hùng? – Minh đăm chiêu hỏi.

– Không! Thanh Vân nghỉ đông. Tôi muốn dẫn nó đi chơi, thăm Berlin vài ngày.

– Thế chị thật sự không biết tin anh Hùng ư? Em đoán, thế nào anh ấy cũng thư hay gọi điện cho chị, nên chưa báo tin cho chị. Em định tối nay gọi
điện thì chị lại tới. Lạ thật! – Minh ngạc nhiên.

– Không. Anh chỉ viết cho tôi ba lá thư, đã lâu rồi.

– Sao anh ấy không báo cho chị nhỉ? Anh ấy đang trong viện, gay lắm! Ngày mai em phải về bên đó. Có thể không kịp đâu!

– Sao. Cậu bảo không kịp cái gì? – Quyên hốt hoảng thật sự.

– Anh ấy đang nguy kịch. Có thể khó qua khỏi. Thực ra, linh tính cho anh ấy biết từ lâu, có điều hệ trọng đang tới, nên cuối năm ngoái, anh ấy đã
viết thư cho chị, xin gặp Thanh Vân.

– Con ra kia chơi nhé! – Quyên nói với Thanh Vân.

Người thanh niên giúp việc Minh dẫ bé Thanh Vân ra gian kệ đặt dãy hàng đồ chơi.

– Cậu nói nhanh lên. Anh Hùng bị sao rồi? – Quyên vội nói, khi Thanh Vân đi với người giúp việc kia.

Quyên vẫn tự hứa không muốn liên lạc gì với Hùng nữa, điều ấy có nhiều lý do lắm, nhưng tin Hùng nguy kịch bây giờ thực sự lại làm cô không thể thờ
ơ. Nét mặt Quyên bấy giờ nom thật căng thẳng khi chờ Minh nói.

– Bao nhiêu năm qua anh Hùng ở Budapest mở quán bán hoa, không phải để làm giàu. Bao nhiêu tiền kiếm được, trong từng ấy năm chui lủi với tụi em,
anh ấy dốc ra chắc cạn rồi, nhằm thuê người tìm chị. Anh ấy sống rất tiết kiệm. ở châu Âu mà không cờ bạc, gái gú, nghiện ngập bia rượu, lại tự vá
lại những mối chỉ sứt trên quần áo thì chị biết đấy, còn ai tiết kiệm hơn như vậy? Khi tìm được địa chỉ của chị, anh ấy vui lắm. Anh ấy rất hy vọng
sẽ được gặp con, gặp lại chị. Có lần anh ấy bảo với em: “Tớ yêu Quyên, nhưng chẳng bao giờ hy vọng cô ấy là vợ mình. Chắc chắn cô ấy không tha thứ
cho mình đâu. Nhưng con thì không thể nào bỏ được. Tớ luôn nhớ, nghĩ rằng, Quyên là người tốt. Cô ấy không tha thứ cho thằng đàn ông khốn nạn trong
tớ, cũng là nhẽ bình thường, hiểu được, song có lẽ Quyên chẳng bao giờ là người ác độc tới mức không cho cha gặp con một lần”. Anh ấy vẫn chờ một
cú điện thoại của chị hay một lá thư. Chờ từng ngày.

“Trời ơi, anh ấy vẫn nghĩ mình thánh thiện như vậy. Thế mà bấy nay mình vẫn nhớ như in và đau đáu những điều đau đớn anh gây ra cho mình. Anh Hùng
ơi, em chẳng được như anh nghĩ như vậy đâu!” Quyên tê tái nghĩ.

Minh mân mê chiếc bật lửa, đột ngột dừng lại. Hình như cậu ta đang thăm dò cảm giác của Quyên. Khuôn mặt của Quyên bấy giờ đang buồn, chợt tỏ ra
chăm chú, lo âu. Đôi lông mày hơi nhíu lại. Minh kể tiếp:

– Trước đây vài năm, sức khỏe của anh ấy không tới nỗi kém, mặc dù đã mất một chân. Nhưng sau khi bị tai nạn, anh ấy hay đau đầu. Khi được thay
chân giả loại mới, anh ấy đi lại ổn ổn, cũng có đi khám vài lần vì bệnh đau đầu mà không phát hiện ra điều gì. Từ ngày tìm thấy dấu tích của chị,
anh ấy bớt đau đầu đi. Nhưng tưởng cái bệnh ấy là do suy nghĩ quá nhiều. Ai ngờ dần đây, anh ấy lại bị đau đầu trở lại. Các cơn đau nhiều hơn và
rất buồn ngủ. Cách đây dăm hôm, anh ấy bị cấp cứu. Người ta xác định một khối u lớn, nghe nói bằng quả ổi con trong não. Khó có thể cứu được. Anh
ấy đang lúc tỉnh, lúc mê rồi. Bệnh viện đang theo dõi. Nhưng khả năng nếu phẫu thuật cũng khó qua được vì khối u lớn quá. Ngày mai em sẽ quay lại
Hung.

Quyên thở dài. Đau đầu! Ừ, anh ấy có những lần đau đầu ghê gớm.

Cô nhớ lại lần Hùng bị cảm trong khu rừng biên giới, nơi gã giam hãm cô, cảnh gã tự đập đầu như điên khùng vào tường gỗ. Cô nhớ hình ảnh khi gã húp
bát cháo gừng cô nấu và đôi mắt biết ơn của gã. Cả câu chuyện miên man, chân thật và đầy khổ đau của gã về mối tình với người vợ đầu tiên. Hay là
cái bệnh hôm nay đã bắt đầu từ ngày ấy?

Trong cô, chớp mắt thôi, lại hiện lên, ùa từ kí ức thăm thẳm hình ảnh khuôn mặt đàn ông phong trần, từng trải và giang hồ của Hùng.

Hình ảnh chập chờn, chiếc ô-tô của Hùng vút lên đánh lạc hướng cảnh sát hôm nào.

Quyên nhắm mắt lại.

Cô lại thấy hình như mái đầu của Hùng áp sát vào bụng cô buổi chiều cuối cùng ở cánh rừng ấy. Khi Hùng dẫn cô đi quanh nhà gỗ, quanh cái chòi bắn
thú bằng gỗ nom như tháp canh và thảm lá mùa đông rụng đầy, rực lên trong ráng chiều, như dát vàng dưới chân của họ.

Tất cả lộn xộn, chập chờn, không theo trật tự của thời gian, logic của sự việc, từ đâu đó, sâu thẳm, vùi sâu trong những góc rất khuất, vốn là nơi
bí mật, thượng đế chỉ dành cho phái yếu, cho riêng đàn bà, hay nói chung là cho những người loại đa cảm, bỗng nay vụt tới, loé sáng, rất rõ nét
trong Quyên.

Hùng, gã trên đời là người đàn ông tàn bạo nhất với cô, nhưng anh cũng là người đàn ông rất biết yêu, yêu mãnh liệt cô, mà không ích kỷ.

“Bấy nay, anh ấy ở lại Hung chỉ vì muốn gặp chị và đặc biệt là gặp con”. Câu nói mà Minh khẳng định ấy giờ đây an ủi rất nhiều cho Quyên. Nó cũng
như ngọn đèn bật lên, chiếu vào làn ranh giới mang tính phân dạng rõ ra về một con người, sáng thêm những vùng khuất bấy nay cô chưa tường lắm về
Hùng.

Nhiều kẻ mang tiếng là đàn ông trên đời này, có con mà chẳng bao giờ ngó ngàng tới con, có điều kiện mà chẳng chăm sóc con, chỉ lo chạy theo những
người đàn bà mới. Ông bà ta đã dạy, nghĩa tử là nghĩa tận. Sao mình cứ khư khư không cho anh ấy gặp Thanh Vân!? Thanh Vân bây giờ có thể không hiểu
hết câu chuyện đầy đau khổ và oái oăm này của hai người sinh ra nó, nhưng chắc chắn, khi lớn lên, nó sẽ hiểu thôi.

Quyên suy nghĩ miên man. Trong lòng cô khi ấy chợt nhói đau. Thứ tình cảm của một người đàn bà tuy trải qua nhiều giống tố, vẫn biết thông cảm và
chia sẻ với những đau khổ của người khác.

Quyên thở dài. Tiếng thở như muốn xua hết tâm nỗi u buồn bấy nay trong cô. Cô nói với Minh:

– Ngày mai cho tôi đi cùng cậu nhé! Tôi muốn thăm anh ấy!

Đêm hôm đó cô trằn trọc. Hết nghĩ tới Hùng, cô lại nhớ đến Kumar. Hùng, bao nhiêu năm nay vẫn tìm cô và nghĩ về con. Kumar bao nhiêu năm nay yêu
cô, bao bọc cho mẹ con cô vì cô. Nay Quyên bỏ đi thế này, chẳng báo cho Kumar là mẹ con cô đi đâu, như vậy rõ ràng, có gì đó không phải, bất ổn. Có
lẽ ngày mai phải gọi điện cho anh ấy vì cô không thể lạnh lùng, tàn nhẫn trước hoàn cảnh này của Hùng. Nghĩ như vậy, Quyên an tâm nhắm mắt chìm vào
trong giấc ngủ.

Sớm ấy, mới ba giờ, Quyên chợt hốt hoảng thức dậy. Cô vừa thoát khỏi một cơn mơ hãi hùng. Cô mơ thấy Kumar và mình cùng Thanh Vân bị nạn. Cô nhìn
thấy trong mơ chiếc xe của gia đình bị lăn xuống vực và Kumar mình đầy lửa bốc cháy. Cô tỉnh giấc, tim còn đập như trống trận. Nhìn sang, Thanh Vân
vẫn ngủ ngon lành. Miệng nó tươi như hoa, hình như đang tủm tỉm cười. Hóa ra chỉ là mơ. Tự nhiên cô thấy nhớ Kumar vô cùng, Quyên lục túi lấy máy.
Cô bấm số Kumar rồi lại tắt. Thôi, để cho anh ấy ngủ. Không biết anh ấy đã nói gì với mẹ anh ấy chưa?

Hai ngày trôi đi rồi, giận nhau mà ra đi, Quyên cũng chỉ định xa anh ấy dăm hôm, chứ làm sao mà có thể phụ bạc con người như Kumar được. Song bây
giờ lại xảy ra tình huống mà lương tâm cô không thể bỏ rơi Hùng. Phải đến Budapest cho anh ấy và Thanh Vân gập nhau một lần. Nhưng cũng phải nó cho
Kumar biết.

Cô lục va-li lấy ra một tập giấy mang theo cho Thanh Vân tập viết . Quyên suy nghĩ một lát rồi nắm nót viết:

Berlin, ngày …. tháng ….. năm …..

Kumar thân yêu,

Em đã định gọi cho anh vài lần. Nhưng có lẽ, thật không tiện khi mẹ anh còn đó và nhất là em chưa biết anh và mẹ anh đã nói chuyện với nhau như thế
nào về mẹ con em.

Kumar yêu dấu,

Bao nhiêu năm nay em vẫn biết rằng anh rất thương yêu hai mẹ con em và lòng em cũng vậy. Có lẽ trong cuộc đời này, sau cha mẹ, anh chính là người
lo lắng, cưu mang, thương yêu em nhiều nhất. Điều đó em luôn ghi tạc trong lòng, nói như người Việt là sống để dạ chết mang theo.

Hiện tại, em đang ở nhà cậu Minh. Nhưng chỉ hai ba ngày sau nữa em sẽ cùng Thanh Vân sang Hung để thăm anh Hùng. Sức khỏe của anh Hùng hiện nay rất
tồi. Anh ấy bị một khối u trong não, rất có thể một hai ngày nữa không qua khỏi, Kumar cũng biết rõ Thanh Vân chính là con đẻ của anh Hùng, như vậy
em quyết định cho cha con nó gặp nhau khi anh Hùng có thể một sớm một chiều ra đi. Xin Kumar hãy hiểu cho em. Bởi vì phong tục ở nước Việt Nam
chúng em luôn coi nghĩa tử là nghĩa tận, nhất là trong bao nhiêu năm nay anh Hùng chỉ muốn nhìn mặt con anh ấy một lần.

Em viết thư này cho anh hiểu. Em yêu anh và không muốn giấu anh bất cứ điều gì, em cũng nghĩ rằng, việc tạm xa nhau trong lúc này là tiện cho cả
hai người, anh và em. Em đi dăm bữa, nửa tháng xong việc em về.

Thanh Vâm và em hôn anh.

Quyên

Lá thư này, ngay buổi sớm hôm đó, Quyênh nhời người coi kho cho Minh ra bưu điện gửi. Cô hy vọng Kumar sẽ an lòng khi đọc nó. Quyên không ngờ rằng,
chỉ hai ngày sau đó lá thư đã tới hộp thư gia đình. Thư bị lẫn trong cả đống báo chí quảng cáo và các giấy tờ khác và, lý do chính là Kumar đang bị
quấn vào sự kiện của mẹ đang nằm viện. Kumar cũng chẳng thể nào ngờ có một lá thư vô cùng thân yêu đang nằm đợi anh, lẫn trong đống giấy tờ quảng
cáo kia.

Cũng phải mất tới dăm hôm, nhờ một Công ty du lịch, Minh mới xoay được visa vào Hung cho Quyên và Thanh Vân. Việc đi của họ tất nhiên vì thế bị
chậm lại. Trong khi chờ giấy tờ vào Hung, Quyên dặn Minh không được báo cho Hùng, khi biết hàng ngày Minh thương điện thoại cho gã. Những lúc Minh
bảo với cô, cậu đang gọi điện hỏi thăm sức khỏe Hùng, Quyên hồi hộp ngồi bên thậm chí còn chú ý nghe trộm giọng nói từ điện thoại của Hùng vẳng ra.
Nhưng ngay cái đêm họ chuẩn bị lên ô-tô để sang Hung, người cầm máy bên kia lại không phải là Hùng, Quyên nghĩ rõ là giọng một người con gái.

Ai đấy? Quyên muốn hỏi Minh lắm mà chẳng dám. Cô thắc mắc là đúng, vì Minh gọi người đó là chị, lại nói năng chuyện trò rất thân mật thế kia, hẳn
người này có quan hệ gắn bó với Hùng. Minh từng nói là Hùng bấy lâu nay ở một mình, dứt khoát không lấy vợ. Vậy anh cặp bồ ư? Vì cái gì?

Quyên giờ đây không còn Quyên hai mươi bốn nữa, cô đã hơn ba mươi. Từng trải rồi, Quyên biết không lạ gì những người đàn ông cặp bồ cặp bịch. Nhưng
cô thực sự không vui vì vốn từ xưa cô rất ghét hai từ bồ, bịch. Nó khốn nại và thảm hại! Trong thâm tâm cô khi đó không phải là sự ghen tuông gì.
Cô đâu có tình yêu nữa với Hùng, để mà ghen tuông. Cô căm ghét hai từ ấy và lúc này đây cô càng muốn những tình cảm, suy nghĩ của cô về Hùng chỉ
còn lại những điều tử tế và tốt đẹp, không bị hoen ố. Sự căm ghét chuyện “bồ bịch” trong Quyên, từ chính lòng căm thù trong cô, trở thành một ý
thức rõ nét, từ những phân tích sự tan vỡ của bao cặp vợ chồng nên chính vùng đất mà cô đã dẫn thân phiêu lưu. Cô phản đối sự cặp gá, phản đối cái
thói của đàn ông, mà đa số quan hệ chỉ để tìm thú vui về thể xác. Cô nhớ một lần tranh luận với một người quen, quanh việc Phi lấy vợ. Cô đấu tranh
cho Quyên nhỏ, nói trắng ra rằng đàn bà Việt luôn chịu đựng và nương nhờ. Sự nương tựa dẫn đến họ cam chịu làm vợ, có thể tha thứ được, chứ thằng
đàn ông không yêu đương gì mà cặp bồ là một việc khốn nạn. Đó là thú vui đầy tính bản năng, căm thù. Lại có lần, cô nói với một cô bạn đang buồn vì
phong phanh chồng có bồ: “Em cứ bình tĩnh khuyên nhủ nó. Đa số đàn ông quan hệ vì thể xác. Điều ấy rất dễ gờ. Chỉ cần dọa nó, nhẹ nhàng, khuyên
can, là nó trở về. Đàn bà chúng mình, ngoại tình mới nguy hiểm. Vì đàn bà đã là ngoại tình tức là tình yêu với chồng suy giảm hay không còn nữa.
Người đàn bà ngoại tình vì tình yêu là chính, tình dục là via trò thứ yếu. Đa số đàn bà ngoại tình, trước sau đều dẫn tới tan vỡ gia đình cũ. Cho
nên bọn đàn ông không biết giữ hạnh phúc trên tay là mất vợ dễ hơn đàn bà mất chồng”.

Trường hợp của Hùng làm cô phân vân. Hay anh ấy lại quay lại đường cũ, quan hệ với đàn bà để trả thù? Không, cô không muốn điều ấy tái hiện. Nhất
định phải tìm ra sự thật!

Kumar ở bên mẹ suốt cả tuần. Việc đóng bảo hiểm cho bà, giúp bệnh viện chăm sóc mẹ anh rất tốt và bà cũng mau hồi phục. Mấy ngày dù hồi phục dần,
bà cũng không nói với con một lời. trong bà đang có một sự suy tư nào đó lao lúng lắm.

“Bây giờ sức khỏe chẳng còn nữa, tới đây cũng chẳng chăm được nó một giờ. Gặp nhau sau bao nhiêu năm ly loạn, giờ đây nó cũng chẳng còn thơ dại để
mà răn dạy nó như đứa trẻ”. Người mẹ già im lặng nhìn đứa con trai ngày đêm bên mình. Mỗi khi mở mắt ra lại thấy nó, dáng giống hệt như cha nó ngày
xưa, giờ đang cúi xuống bên giường bà. Bà thấy tê tái. Lại nghĩ tới người chồng đã chết, cảnh con gái bà trên giàn thiêu và hoàn cảnh của cả nhà mà
bà cứ muốn quay mặt vào tường khóc thầm.

Những người mẹ trên thế gian này, dù khác nhau bao nhiêu về màu da, tiếng nói, phong tục, tập quán, nhưng có lẽ chẳng có sự khác nhau về tấm lòng,
trái tim dành cho con. “Đẻ nó ra, nó là một phần của cuộc sống người mẹ, sao mà không thương nó”.

Thứ Hai, Kumar rất vui khi bà ăn uống được bình thường. Dường như hai mẹ con chẳng muốn nhắc lại những giây phút đã qua. Kumar dẫn mẹ sưởi nắng ở
vườn hoa bệnh viện. Mặc ấm cho mẹ, cầm tay mẹ ngồi trên ghế đá, nhìn những bông tuyết hững hờ rơi, những con chim câu nhởn nhơ nhặt bánh vụn. Anh
rất muốn nói những lời âu yếm, thương yêu với mẹ, mà chẳng thể.

Thứ Tư, bà xuất viện.

Đó là hôm bão tuyết bỗng ập đến nhanh bất ngờ. Trên ô-tô đi về, mẹ Kumar lần đầu tiên nhìn rõ những cơn gió trắng xóa cuốn tuyết chạy ngang như
muốn lật nhào chiếc xe mẹ con bà đang đi. Trời lạnh như muốn rụng cả tai, tê dại cả mũi. Lúc xuống xe đi lên nhà, bà nhìn thấy có người mẹ trẻ bế
con chạy dọc vỉa hè và tất tưởi dấn bước cho kịp vào cầu thang máy cùng họ. Người phụ nữ Đức trẻ phẩy tuyết trên mũ len và áo cho đứa trẻ, hôn chùn
chụt và đôi má hồng nây nẩy của con bé, như muốn sởi ấm nó bằng đôi môi, chắc cũng lạnh cứng của cô ta.

Có vậy thôi mà tim bà nhoi nhói. Bà nghĩ có vẻ lao lúng lắm và khi vào đến căn hộ, bà đi vào phòng và tìm ngay bức ảnh của Quyên và Thanh Vân.

Ồ, xem ra người phụ nữ trẻ Á châu này cũng đẹp và phúc hậu. Mẹ con nó bây giờ đang ở đâu?

Tối hôm ấy, bà bảo con sắp xếp cho bà quay về Anh. “Mẹ còn đi phía Nam thăm chị mày nữa!” Kumar biết tính mẹ. Bà nói như vậy, tức là khó lòng nào
giữ bà lại được.

Hai mẹ con suốt hai ngày sau cũng chỉ toàn nói về chuyện quê hương, về thảo nguyên, đồng cỏ, những đàn gia súc, cả những người mất và còn trong
vùng thảo nguyên Anura. Tới hôm chờ giờ lên máy bay cũng chỉ vẫn những câu chuyện tầm phào như vậy. Cả hai không hề nhắc tới mẹ con Quyên.

Tận tới khi Kumar đưa mẹ tới sát cửa khu cách ly, mẹ anh quay lại đột ngột ôm chặt lấy con trai mình. Hình như mẹ khóc. Kumar áp đầu vào mái tóc
mẹ, siết chặt lấy tấm thân nhỏ bé của mẹ. Anh thật bàng hoàng khi nghe tiếng mẹ nói rất nhỏ vào tai anh:

– Còn chờ gì nữa, con hổ con của mẹ, hãy quay lại ngay! Đi tìm mẹ con nó đi!

Người mẹ Sri Lanka hôn ba lần vào trán Kumar, rồi đột ngột đẩy con ra.

– Đi đi!

Trời ơi, anh không tin vào đôi tai của chính anh nữa. Mẹ anh quay người, bà vội đi vào bên trong khu nhà chờ lên máy bay, không hề ngoảnh mặt lại.
Kumar bàng hoàng. Anh nhìn theo mãi cái tà áo huyết dụ điểm những bông hoa lớn phấp phới bay, khoác trên hình dáng vô cùng yêu thương của mẹ anh và
anh khóc. Những giọt nước mắt hiếm hoi của người đàn ông dòng tộc Sinnatuerra chầm chậm chảy trên đôi má màu đen của anh, trong ánh đèn chợt long
lanh như những viên ngọc đen.

Vài hôm sau, người ta thấy một người da đen như than, trên vai đeo ba-lô nhỏ bước trên chuyến tàu nhanh chạy thẳng tới Berlin.

Đó chính là Kumar.

Vốn dũng cảm, lại tự tin, anh quyết định lần theo dấu vết Quyên. Anh phải tìm bằng được mẹ con Quyên!

Anh lái xe chạy tức tốc tới nhà Phi. Phi không biết mẹ con Quyên đi đâu!

Kumar chở về nhà, anh tha thẩn cầm trên tay những vật dụng còn lại của Thanh Vân trong các ngăn tủ. Trong tâm trí của Kumar khi ấy chỉ nghĩ tới hai
mẹ con Quyên. Anh không còn bụng dạ nào nghĩ tới việc khác và cũng không ngờ có thư của Quyên trong hòm thư. Anh lục trong các ngăn kéo, tìm được
hai lá thư của Hùng gửi Quyên để lại. Anh đọc thấy dòng chữ ghi địa chỉ của Minh tại Berlin. Quyên có thể đi tới đó?

Kumar tìm tới đúng chiếc kho của Minh. Anh đã dự đoán đúng, Quyên đi sang Hung cùng Minh, người coi kho của Minh mách.

Kumar đóng cửa hàng. Anh treo biển thông báo cho thực khách quen biết. Anh phải đi tìm Quyên và bé Thanh Vân về. Chắc chắn cô chẳng giận dỗi nữa,
vì mẹ anh, chính mẹ anh đã bảo con trai của dòng học Sinnatuerra đi tìm mẹ con cô ấy mà.

Suốt đêm trên tàu Quyên không ngủ. Minh cũng không ngủ.

Những con tàu chở đủ loại người, các sắc tộc cứ đan đi, đan lại trên cả chặng đường dài họ sang Hung.

Đêm qua Quyên mới biết, Minh hơn Quyên những bốn năm tuổi, thế mà anh ta cứ chị em ngọt xớt.

Minh xuất thân không phải từ thành phần bất hảo. Thậm trí nguồn gốc còn từ gia đình trí thức nòi.

“Cha em là một nhà báo nổi tiếng. Anh chị đều là nhạc sỹ hay phát thanh viên truyền hình”. Minh học nhạc từ nhỏ, rồi vào đoàn xiếc. Anh chơi đàn
Contrebase trong dàn nhạc. Được một năm theo nghề, rồi có đợt lấy lao động xuất khẩu, anh rời đoàn xiếc đi Lao động xuất khẩu tại Tiệp. Bức tường
Berlin đổ sụp, châu Âu biến động, nhà máy tan rã. Minh không muốn về nước, anh buôn bán lặt vặt, rồi lạc vào tốp bộ đội của Hùng và làm chân đưa
đường dưới sự chỉ đạo của Hùng. Giải thích điều ấy, Minh triết lý, cuộc đời như sông, người ta như nước.

Bao nhiêu năm nay, Minh không làm gì liên quan đến âm nhạc, nhưng “ở trong sâu thẳm tâm hồn em, vẫn còn chút ít ngọn lửa nào đó âm ỉ, và điều đó
vẫn tồn tại thực sự dài lâu, khó có thể quên đi trong con người nghệ sỹ”. Minh tâm sự “Bỏ nghề lâu rồi, nhưng đôi khi xem vô tuyến, nghe đài, cứ
thấy đám bè bạn cũ chơi nhạc, hay đôi khi vô tình nghe lại một bản nhạc xưa từng hoà tấu cùng bạn bè là em buồn lắm”. Từ ngày Hùng bị thương, bỏ
nghề, Minh theo lời khuyên của Hùng đi buôn bán quần áo. Cậu ta cũng kiếm được.

Quyên nhìn Minh. Hoá ra ngay từ ngày đầu gặp gỡ, cô đã có linh cảm ở Minh có điều gì đó, mà khi lẫn vào đám thảo khấu, vẫn lột ra chút bản lĩnh của
một con người muốn hướng thiện. Cô nhớ lại hôm Minh cô đi vượt biên, nhớ đôi mắt ái ngại của Minh, lúc chia tay ở trại, và cả bàn tay Minh đặt lên
bàn tay cô ở trạm xăng… Hôm nay, nói chuyện với cậu, Quyên mới thấy khám phá tâm hồn của con người ta chẳng giản đơn chút nào.

– Em cũng bắt đầu chán đi lại rồi. Em chưa già – Minh nói với Quyên – Nhưng hàng năm đi lại, di chuyển hàng mấy chục bận bắt đầu thấy ngại vì nhiều
việc thấy vô lý quá. Sức khoẻ của em khá tốt, đi như thế chẳng mệt mỏi gì, nếu nói riêng về thể xác, nhưng lại mệt mỏi cái khác. Những lần đi ô-tô,
ngủ gà ngủ gật trên đó thì không sao. Nhưng mỗi khi đi máy bay, tàu Zug, cứ ngồi vạ vật chờ đợi tại một sân ga, nhìn người ta qua lại nháo nhào, ai
cũng vội vã, là em buồn lắm. Người Việt mình không như nhiều dân tộc khác. Dân Digan chẳng hạn, hay vài bộ tộc người Ru, người Nam Mỹ sang châu Âu
đàn, hát rong, người ta cứ đi khắp nơi trên thế giới tới chết được thì cũng lạ. Anh Hùng từng bảo, em phải tìm ai mà lập gia đình thì mới yên ổn
được… Nhưng ở châu Âu này, cứ lưu lạc mãi, lại buôn bán lang thang như thế này, biết tìm ai cho vừa vặn mình? Em về Việt Nam mấy bận rồi. Cũng
quen khối cô gái. Song chả bắt duyên ai. Những năm trước, em hay về dịp Tết. Từ ngày bố mẹ em mất, em chẳng muốn về Tết nữa. Sống ở nước ngoài,
người ta ăn Tết Noel là trọng, ai biết cái Tết Nguyên Đán nhà mình, thành ra cứ hết mồng Một là hết cả Tết. Có mâm cao cỗ đầy, rượu chè ê hề, cũng
đâu có không khí Tết. Tết là cả không khí, hồn khói, hương vị, âm thanh và linh cảm của cả dân tộc, xã hội, cộng đồng. Nó, điều đó chẳng có tiền
nào mua được, làm được hoặc tạo nên!

Về Việt Nam, những ngày còn cha mẹ em, Tết đúng là Tết. Khi cha mẹ mất cả, hết ngày mồng Một, hết ngày sum họp, anh chị em ăn bữa cơm đầu năm cúng
ông bà, bố mẹ, mọi người là kiến giả nhất phận, lại giống y như bên Tây đâu còn là Tết. Bè bạn khi ấy cũng bận bịu, chúc Tết, thăm thú họ hàng. Ai
cũng có việc riêng mà thường ngày chưa giải quyết, nên có trơ khấc mình ra. Em mua một cái vườn ở Ngọc Hà, vườn rộng hơn hai trăm mét. Suốt năm sáu
ngày Tết ở trong ấy. Sợ không dám ra phố, chị ạ. Đi ra phố càng buồn hơn! Người ta thì vợ chồng, con cái du xuân, mình cứ thui thủi! Chị thử tính
hộ xem xem, có đúng là, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ…- Minh ngừng kể. Cậu ta có vẻ xúc động. Quyên nắm lấy tay cậu. Minh hít một hơi thật
sâu, đôi mắt anh thật buồn, đăm chiêu, anh nói tiếp:

– Hóa ra những đứa trót lang bạt kỳ hồ, chẳng có một gia đình, ở đâu cũng tạm bợ, nơi nào cũng thấy chẳng bao giờ là của mình. Cả đi và về, đều như
vậy. Nhiều khi về thăm quê, đi ngay trong Hà Nội, trong những đường phố, trên những ngõ ngách thời xưa vô cùng thân yêu, quen thuộc đến từng gốc
cây, góc phố; nó từng là của mình, hơi thở, máu thịt của mình, thế mà bỗng thoắt nhiên mọi sự thân quen biến mất! Tất cả bỗng trở thành xa lạ! Lạc
loài chị ơi.

Nói xong câu nói ấy. Minh chợt im lặng.

Con tàu liên vận kín và êm, lặng tới mức Quyên nghe rõ không sót một từ cả khi Minh nói rất nhỏ. Từng câu một, chắc từ lâu đã đâm ỉ, nhoi nhói, ứ
tràn ở trái tim, trong con tim Minh bây giờ mới có dịp vọt ra.

Minh chỉ ra ngoài tàu: “Chị nhìn xem. Tàu xắp vào ga chính đấy. Người nào cũng vội vã lắm. Bao nhiêu kẻ trở lại gia đình họ, nơi chờ đợi họ, ngôi
nhà sinh ra họ… Còn chị em mình, như em mọi bận lại trở về một gian phòng, dù đầy đủ vật chất mà chẳng có một hơi ấm gia đình!”

Ồ, thế mà Quyên lại vừa rời một gia đình ra đi. Cái mái nhà của cô với Kumar bấy nay chẳng phải là một gia đình sao? Không, cô không có lỗi. Cả cô
và Kumar, nhất là Thanh Vân bấy nay đều coi nó là một gia đình? Song có lẽ, chỉ với Thanh Vân, khi nó chẳng phụ thuộc, dính líu gì với dĩ vãng,
phong tục, tập quán, trong lòng nó chỉ đầy ăm ắp một tình yêu với Kumar và Quyên, là đầy đủ, trọn vẹn ý nghĩa hạnh phúc gia đình thôi. Còn cô và
Kumar, bây giờ, trong sự kiện khi mẹ anh ấy tới, sự không thể chia sẻ được của Kumar, cô nhận ra, cô và Kumar đều thiếu hụt gì đó, chưa hẳn chọn
vẹn hai chữ gia đình.

– Cậu về nước tìm vợ đi, có đi sẽ tới mà. Thể nào chẳng có người đẹp cho cậu, nếu bên này khó quá! – Quyên nói.

– Lại vẫn như ông anh Hùng khuyên em. Dù là anh Hùng từng bảo, cái dạng như em là dạng sang chấn, què quặt về tâm lý. Mà có gia đình rồi, liệu có
thể xua đuổi hết cho tâm lý không tàn phế không? Những kẻ ra đi, hỏi những ai, bao nhiêu người giữ được cân bằng? Bao nhiêu người tha hương, bứt
khỏi cội rễ, kiệt khô cái nguồn cội tổ tiên, bị ngờm ngợp trước một nền văn hóa khác, rơi vào tình trạng què quặt và có kẻ tàn phế tâm lý! Lại việc
lấy vợ cho yên ổn. Ha ha! – Minh cười nhạt. – Chẳng đơn giản đâu, chị ơi. Bao nhiêu người cũng về nước lấy vợ đấy. Rồi hạnh phúc ra sao, nếu như
chỉ dăm bữa làm quen. Nhiều người biết tỏng cánh ở nước ngoài sống ra sao. Nhưng cũng khối người cũng hiểu hai chữ Việt Kiều vớ vẩn lắm. Những cô
gái trẻ, nhất là đám chị em thiếu thông tin, ít va chạm, nhìn một thằng ở Tây về, chả biết rằng, ở xứ người nó là một thằng làm thuê, bán hàng
rong. Họ biết đâu, khoác cái mác Việt Kiều chẳng phải ai cũng giàu. Kẻ lương lậu phập phù ba cọc ba đồng, lại mấy năm mới trở về, rất hay xúng xính
mũ áo, tiêu hoang như bắt được của, vì cái tính sỹ diện hão của đám người Việt mình, cũng là một biểu hiện mặc cảm, sang chấn tâm lý cả thôi. Đấy,
bao cô gái, bao điều ngộ nhận, thành ra cái việc lấy nhau cũng vớ vẩn lắm. Cái chị bây giờ đến chăm sóc anh Hùng cũng vì thế mà hỏng cả đấy.

– Hỏng thế nào? – Quyên chăm chú hồi hộp. Cô đăm đăm nhìn Minh hồi hộp chờ anh ta nói.

– Một thằng cha căng chú kiết ở Poland về quê tăm một em thật đẹp ở quê sang. Sống với nhau đúng vài ngày, cô ta mới vỡ lẽ, mới rõ là anh chàng
Việt kiều tiêu như phá ở đợt về thăm quê chỉ là kẻ bốc vác thuê trong trung tâm bán buôn Sân vận động. Thằng cha này lại đang vào vận đen, đón vị
sang, chi phí ở Việt Nam quá tay, sang bên này, liều chơi đỏ đen mong lấy nhà người là chuồng xí nhà mình. Ai dè, cú đỏ đen một sấp một ngửa ấy,
thua liểng xiểng. Gã thua, tiền túi sạch bách, lại vay như chúa Chổm, đến đận tiền nhà chẳng có mà trả, chủ nhà nó tống ra đường. Thế là vợ chồng
đi ở nhờ dưới tầng hầm nhà bạn. Cô vợ anh ta, cái cô Huệ ấy, tất nhiên là chán thằng này tới tận cổ, nhưng một năm sau lại tòi ra một thằng con nên
cố nhẫn nhịn. Rồi cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt, sau hai năm vất vưởng, tiền sinh hoạt để tồn tại chẳng đủ nữa là tiền gửi về nhà cho cha mẹ. Thế
là bỏ nhau. Huệ gửi con về nhà cho bà ngoại, nấu xôi, bán quanh nơi bán buôn của người Việt. Cứ như thế thì chắc chẳng tới nỗi nào, năng nhặt chặt
bị, rồi cũng có ngày có tiền gửi về. Lằng nhằng thế nào, Tết ấy lại nghe lời rủ rê, liều thân theo một tay buôn chuyến đánh hàng sang Hung và Tiệp.
Tay này, xưa là dân máu mặt, đánh hàng cũng điên lắm, nhiều lắm. Ăn chơi cũng khét tiếng. Nhưng đúng vào cái thời hàng Tàu tràn sang, bán rẻ như
cho, buôn bán phập phù làm hắn liêu xiêu. Tay bạn mới của Huệ trắng tay khi đánh chục xe container áo da đểu sang Đức. Vay của cánh làm ăn cả trăm
ngàn Euro không trả được, đành bỏ của chạy lấy người. Khốn nạn, cái thằng cha ăn chơi nổi tiếng ấy, nó lặn đi đâu mất tiêu, bỏ cô Huệ vất vưởng tại
Hung, đúng vào lúc cô ấy trọng bệnh. Xưa, gái một con đẹp ra phết, bây giờ thân tàn ma dại, người chả ra hồn người. Vất vưởng một thân nơi đất lạ,
Huệ lang thang thế nào lại gặp anh Hùng. Cô Huệ về ở với anh Hùng bốn năm tháng nay rồi. Thiên hạ đồn rầm là anh Hùng có bồ, nhưng em xem ra, hai
người chẳng có tình ý gì.

– Sao lại chẳng có tình ý gì?. – Quyên nheo mắt.

– Anh Hùng bảo, Huệ như em gái anh ấy thôi. Em đi, về, qua lại nhà anh Hùng nhiều lần, quan sát thấy, có lẽ họ không có tình ý gì với nhau ngòai
tình coi nhau như anh em. Anh Hùng để cô ấy sống cùng tại nhà, dạy cô ấy cách chọn hoa, bảo quản và giá cả từng loại, kể cả việc dạy cô ấy thuộc
tên khách hàng, thói quen sở thích của từng người về loại hoa nào họ yêu thích. Nghe nói họ bây giờ bán thêm báo và đồ lưu niệm. Có bận anh ấy dặn
em, nếu có việc gì xảy ra thì nhớ thay anh ấy cưu mang Huệ. Thiên hạ đồn là hai người cặp bồ với nhau, nhưng em không tin. Anh Hùng chưa khi nào
nói dối em cả. Mà cũng lạ lắm, hình như cô ấy bị bệnh gì đó dễ lây nhiễm, nên mỗi bận em tới, thấy cô ta rất cẩn thận khi ăn uống và sinh hoạt. Mọi
vật dụng cho anh Hùng và em đều riêng biệt. Hai người vẫn ở hai phòng riêng.

Lại một bí mật nữa về Hùng. ừ, nếu thế thì cô an lòng. Điều Quyên lo lắng nhất vậy là không có. Có thể là một chắc ẩn nào đây? Hay là khi ốm đau,
cũng là cảnh bèo dạt mây trôi, Hùng vừa giúp đỡ, vừa nương tựa vào Huệ? Quyên nghĩ.

Ba giờ chiều hôm ấy họ mới tới Budapest.

Minh bấm máy gọi cho Hùng. Máy bên kia mãi mới bật lên. Nghe như tiếng ai khóc thút thít.

Buông máy, khuôn mặt Minh tái đi. Tiếng cậu như lạc hẳn: “Ta đến ngay bệnh viện anh Hùng không qua khỏi rồi!”

– Sao, cậu nói anh Hùng ra sao? – Quyên hoảng hốt.

– Anh Hùng tỉnh, mê mấy hôm nay. Chắc sắp mất. Cô Huệ báo như vậy. Chúng ta tới nhanh không chẳng kịp mất. – Minh nói rồi bấm máy gọi Taxi.

– Cũng may, bên kia đường khi ấy có một chiếc taxi ngang qua.

Thanh Vân cũng dường như biết mẹ và chú Minh đang cần gì. Nó nhanh nhẹn giơ bàn tay bé xinh ra, chĩa ngón tay cái xuống đất. Chiếc xe taxi vòng
gấp, đỗ ngay lề đường cạnh họ.

Minh kéo tay Thanh Vân, mở cửa xe. Vài giây sau họ ngồi trên taxi lao nhanh về bệnh viện, nơi Hùng đang điều trị.

Chẳng hiểu sao, khi yên vị trên nệm xe, trong tình huống ấy, Quyên lại chợt nhớ tới Kumar.

Không biết, bây giờ anh và mẹ anh gặp gỡ nói chuyện gì với nhau ra sao rồi?

Cô bật máy. Chắc bây giờ anh ấy đang chung vui với mẹ. Chắc bây giờ anh đã đọc thư của mình rồi. Nghĩ vậy, Quyên lại tắt máy điện thoại, cho nó vào
trong túi xách. Thôi, bây giờ phải tập trung giải quyết xong việc với anh Hùng đã.

Budapest thật yên bình và kiều diễm. Trẻ con bao giờ cũng háo hức với cảnh lạ. Thanh Vân nhìn ra ngoài, mắt không chớp ngắm phố phường và chỉ cho
mẹ những lâu đài có mái cong, tháp tròn, nhiều mầu sắc.

Quyên ôm lấy con. Ừ, giá như không có chuyện gì phải bận tâm, chắc hai mẹ con cô sẽ có những ngày thật vui ở đất nước yên bình này.

Mùa đông ở Hung đỡ lạnh, ấm hơn ở Đức. Con sông êm đềm và bầy thiên nga trôi lặng lẽ trên sóng lăn tăn. Những vệt sóng dồn từng đợt trong gió, đôi
khi nhô cao như những dòng kẻ khuông nhạc, và đám thiên nga bồng bềnh trên sóng, nom tựa những nốt nhạc trắng điểm trên bản nhạc viết trên mặt
sông.

Kumar mặt như thần ra trước cốc trà người coi kho của Minh rót cho. Anh cũng không buồn uống nữa. Hôm qua anh đã vài lần gọi điện cho Quyên, anh
không hiểu vì sao không thể liên lạc được. Khi thì tiếng tút tút kéo dài, Quyên không cầm máy; khi thì tắt máy hẳn. Anh không biết được rằng, chiếc
máy của Quyên thường để trong túi xách. Do vậy cô không nghe được tiếng gọi tha thiết của anh. Bây giờ lại nghe tin Quyên và con đi sang tìm Hùng.
Anh hững hờ cầm tờ giấy ghi địa chỉ của nhà Minh, của nhà Hùng từ tay người coi kho.

Thoạt đầu, trong lòng anh cũng bùng lên sự ghen tức. Anh bật máy gọi Quyên rồi tắt ngay.

Ngồi ở sân ga chờ tầu quay về mà anh rất buồn. Hóa ra bấy nay Quyên vẫn nhớ tới Hùng ư? Anh vò đầu đau khổ. Song, lúc sau anh lại nghĩ: “Không,
Quyên không thể lừa dối suốt bảy năm như thế. Quyên yêu anh! Cô ấy đi tìm Hùng vì anh ta sắp mất thôi. Vả lại Kumar còn Thanh Vân nữa. Nó là con
anh cơ mà. Dù Quyên có thể nhớ tới Hùng, nhưng với anh còn sợi dây Thanh Vân nữa”. Vậy làm sao mà anh có thể từ bỏ nó được. Con người ta ăn ở với
nhau, sự gần gũi bấy nay, anh đã chứng kiến từ khi nó lọt lòng, nuôi dạy nó lớn lên và hai cha con quấn quýt. Anh và nó biết bao kỷ niệm qua tháng
năm, chẳng yêu thương nhau vô bờ đấy thôi. Kumar ngửa mặt lên trời. Anh nhớ tới khuôn mặt nó, bàn tay nó, cả vết bớt ở bắp chân trái màu đo đỏ mà
anh hay trêu đùa bảo, đó chính là vệt son đánh dấu vào đó khi nó mới sinh ra, cho khỏi lẫn với những đứa trẻ khác. ừ, Quyên dù có lỗi lầm gì nữa
thì có thể trong cơn giận dữ và tự ái này, anh phải hiểu và tha thứ. Hơn nữa, anh còn Thanh Vân. Phải đi tìm thôi. Người đàn ông Sri Lanka không
bao giờ thoái chí cả; vả lại, chính mẹ anh, người thay mặt dòng họ Sinnatuerra kiêu hãnh đã hạ lệnh cho anh rồi.

Nghĩ như vậy, Kumar chợt bình tĩnh lại. Anh đi nhanh tới phòng vé.

Tối đấy, có ba chuyến đi Hung, Kumar lấy vé chuyến thứ nhất, chuyến zug chỉ đỗ ở hai ga, đi thẳng tới Budapest. Có nghĩa là anh đến đó khi trời vừa
sáng. Không ngại, ta sẽ đi taxi thẳng tới nhà Minh hay Hùng.

Kumar không hề biết rằng, khi mà anh lên tầu, ngồi xuống cái đệm da nâu êm ái để đi tới Budapest thì biết bao sự việc xảy ra với Quyên, để cuộc săn
tìm của anh, hệt như một cuộc chốn tìm của lũ trẻ, không phải trong thành phố, mà ở trong cánh rừng Aruna huyền bí.

Quyên không tin vào đôi mắt của cô khi nhìn thấy Hùng.

Cái con người kiêu hãnh, cường tráng hôm nào, giờ chỉ còn là tấm thân bất động trên giường nệm trắng. Hùng nom xanh xao, gấy guộc, già đi rất
nhiều. Mái tóc chẳng còn xanh rậm như xưa nữa, bạc và thưa. Tuy nhiên giờ đây, khuôn mặt phong trần của anh lại có vẻ bình thản, tựa như anh vừa
làm xong một công việc nặng nhọc và bình nhiên đánh giấc ngủ trưa.

Bên cạnh anh, người đàn bà tên Huệ vẫn nắm lấy tay anh chẳng rời.

– Anh Hùng ơi! Quyên đây, tỉnh lại đi! – Quyên muốn khóc mà chẳng khóc được. Hùng dường như chẳng nghe thấy lời cô. Đôi mắt vẫn nhắm.

“Anh ấy không tỉnh lại từ đêm hôm qua. Giá minh và chị cùng cháu sang đây sớm!” Người phụ nữ xưng tên Huệ nghẹn ngào kể, khi đưa tay quệt hai dòng
nước mắt vẫn chảy nhòa trên đôi gò má hơi cao. Có lẽ cô ta đã khóc rất nhiều. Quầng mắt sâu, thâm quầng và thật đau đớn.

Minh cầm tay Thanh Vân. Anh quay sang nói với Quyên: “Chị ơi, hãy cho cháu nó biết đi! Em van chị. Rồi nay mai lớn lên, chúng nó sẽ hiểu hết cuộc
đời của chúng ta. Xin chị hãy vì anh Hùng một lần mà tha thứ!”

“Trời ơi, Minh không hiểu tôi!” Quyên muốn nói mà không thể. Biết bao suy tư bây giờ trong lòng cô. Dầu sao, con người ta tới tận cùng của sự sống
và cái chết, lại ở trong hoàn cảnh cùng xa xứ, tha hương thì khi này, còn có gì nữa đẻ mà thù hận. Quyên cầm tay con. Cô đắn đo một lát, rồi dẫn nó
tới sát bên Huệ. Quyên nhìn thẳng vào mắt Huệ rồi nhẹ nhàng nói:

– Bấy lâu nay, Hùng có kể gì cho em nghe không?

– Chị đưa cháu lên với anh ấy đi!- Huệ lại khóc. – Anh ấy kể chuyện chị với me lâu rồi. Em biết hết. Chị ơi, trên đời này anh ấy chỉ yêu chị. Anh
ấy luôn dằn vặt đau khổ. Bao nhiêu năm nay, cả tối qua anh ấy vẫn gọi tên chị và tên Thanh Vân.

– Thôi, em đừng nói nữa! Quyên nắm bàn tay Huệ.

Quyên ngồi xuống, nhìn Thanh Vân một lát. Biết nói sao cho Thanh Vân hiểu đây?

Thật buồn, Quyên đắn đi như vậy vì dù là mẹ, cô vẫn không thể hiểu thấu cho tận cùng chính con mình, những đứa trẻ Việt đã sinh ra ở Đức.

Thực ra từ vài năm nay, Thanh Vân đã hiểu ra những điều phức tạp của cuộc sống quanh nó. Bắt đầu từ lớp Hai nó lơ mơ nhận ra, nó không phải là con
của Kumar. Tới lớp Ba, khi tâm sự điều đó với bà giáo Nensi, nó hoàn toàn biết, Kumar chỉ là cha dượng. Hiểu được tâm lý trẻ, bà giáo người Đức ấy
đã dành nhiều thời gian để tâm sự giải thích cho nó về tình yêu của con người. Bà đã giúp nó an lòng, nói rằng, trong cuộc sống của chúng ta, tình
yêu không chỉ độc quyền của người ruột thịt. Bà bảo, khi con người gần gũi và giúp đỡ nhau hết lòng, tình yêu sẽ xuất hiện. Bà hỏi nó về Kumar rồi
cho rằng, Kumar là một người cha dượng tuyệt vời. Thâm tâm nó không thích từ cha dượng. Vì thế, tuy bí mật hé lộ, nó vẫn gọi papa đầy thân yêu với
Kumar như trước kia.

Năm tháng trôi qua, với tình cảm của Kumar, nó cũng không nặng nề suy nghĩ để dằn vặt khi không biết cha nó là ai. Nó cũng được cô giáo giải thích
rằng chúng nó, những đứa trẻ sinh ra từ tình yêu của bố mẹ, chứ không phải từ nách hay đâu đó ở người mẹ. Cũng đôi khi nó tự hỏi, vậy tình yêu của
họ bây giờ ở đâu, mà cha nó không bao giờ xuất hiện. Ở lớp học, có tới dăm đứa chỉ sống với mẹ. Chúng không hề than phiền về điều đó. Chính điều ấy
an ủi cho Thanh Vân rất nhiều. Những đứa trẻ từ bé được giáo dục về lòng tự tin và can đảm đã sớm tự ý thức rằng, những việc của người lớn đã xảy
ra là ngoài ý muốn của chúng. Từ đó Thanh Vân cũng không muốn hỏi mẹ nó, khi chính mẹ không muốn nói thì hẳn đó là câu chuyện mẹ đang giấu kín, nếu
gợi ra sẽ mang lại thương tổn cho mẹ.

Bây giờ, mấy ngày nay nó cũng lơ mơ hiểu ra điều gì đang tới. Người đàn ông già năm kia là cha nó ư? Bấy nhiêu năm nay, ông ấy biền biệt, không
biết ông ấy có yêu thương nó như Kumar không? Nó âm thầm đau khổ, nhưng nghị lực của một đứa trẻ từ nhà trẻ, mẫu giáo được giáo dục, con người phải
tự tin và biết sống độc lập, giúp nó kiềm chế nét mặt, cả những giọt nước mắt. Thanh Vân nhìn thẳng vào mắt mẹ. Chờ đợi!

Quyên nắm lấy tay con. Thực ra bấy nay và ngay tận tới trước đó vài giây Quyên không muốn nói cho Thanh Vân chuyện cha nó là ai. Quyên không muốn
cái quá khứ kia làm tổn thương nó, nhưng nghĩa tử là nghĩa tận. Và cô cũng hiểu, tuyệt đối tin rằng: con người Hùng, cha đẻ của Thanh Vân đã thực
lòng đau khổ bao năm. Đánh kẻ chạy đi, không đánh kẻ chạy lại! Giờ đây, cha nó đang hấp hối. Hãy cho nó cầm lấy tay cha nó một lần, để nếu như cõi
người này có một giá trị bất biến là lương tâm thì cô và Hùng chẳng ân hận gì.

Hai mẹ con nhìn nhau. Quyên cũng không tìm ra một lời giải thích nào. Quyên bình tĩnh, lặng lẽ nói với con gái:

– Thanh Vân ạ. Bấy lâu mẹ giấu con. Bây giờ mẹ muốn con biết, người đang chờ chết kia chính là cha con.

Nói rồi, Quyên cũng không chờ sự phản ứng của con mình. Cô tin ở sức mạnh của tấm lòng con người, tin ở sức mạnh của tiếng gọi máu mủ ruột thịt,
cái lòng tin vốn như lửa tro, lửa trấu, như đống rơm luôn âm ỉ sống trong lòng mỗi người Việt như cô. Quyên cầm bàn tay bé nhỏ của con đặt vào lòng
bàn tay của Hùng.

Thanh Vân thực sự bình tĩnh, dầu nó cũng lúng túng và tích tắc. Đây là lần đầu mẹ nói ra điều này với nó. Thanh Vân là đứa trẻ thông minh. Những
giờ phút vừa qua và lời nói của mẹ ngay lập tức khiến nó ý thức được rằng, một việc nghiêm trọng đang xảy ra.

Thanh Vân dè dạt bước một bước sát tới giường Hùng.

Nó nhìn vào khuôn mặt của người đàn ông mắt đang nhắm lại và thở nhè nhẹ.

Khi bàn tay nó chạm vào tay Hùng, có một cảm giác kỳ lạ vào xương thịt và tự nhiên trong lòng nó cũng bống dâng lên một sự thương cảm. Sự thương
cảm vốn thường trú ở con người như nó, giống như khi bà Renni, giáo viên sinh vật, khi giảng dạy giải thích cho bọn trẻ về cái chết, chỉ cho tụi
trẻ lớp nó con cánh cam bị đàn kiến tha đi trong vườn trường. Khi ấy, nó tưởng tượng, cảm nhận thấy nỗi đau đớn của con vật có đôi cánh xanh biếc
tuyệt đẹp đang bị đàn kiến cắn xé kia. Thanh Vân đã khóc. Bây giờ, người đàn ông này đang chờ chết. “Rồi mai đây, ông ta sẽ nằm trong lòng đất
lạnh. Lũ kiến sẽ tới và gặm dần ông như bọn kiến đã cắn, tha con cánh cam hôm nào ở vườn trường” Nó thầm nghĩ.

“Meingod! Người kia là cha nó”. Thanh Vân hơi hoảng hốt, buột ra câu cửa miệng của bọn chúng. Nó biết, bao nhiêu người đã gọi và ông ta không tỉnh
dậy? Có thể ông sẽ tỉnh lạii nếu như mình gọi chăng? Mọi sự đều phải thử vậy. Nếu ông ấy chết, kiến sẽ cắn và thế thì thật đau đớn lắm.

Chẳng ai xui cả. Nó nghĩ đơn giản như vậy và cất tiếng:

– Bố, bố ơi!- Nó sắp khóc.

Không rõ vì sao Thanh Vân có thể gọi người đàn ông nằm kia bằng thứ tiếng thăm thẳm bao nhiêu ngày chưa bao giờ được cất lên. Điều đó cũng hoàn
toàn vô thức trong thời điểm ấy, để tiếng gọi bằng ngôn ngữ mẹ đẻ ấy tự nhiên bật được ngay ra, không phải tìm tòi lâu trong vốn từ Việt mẹ nó
thường dạy.

Thật kỳ lạ! Trước đó Huệ cũng gọi tên Hùng ba lần. Minh cũng gọi “Anh Hùng ơi!” và, đặc biệt là Quyên cũng đã gọi Hùng dăm lần, thế mà anh vẫn bất
động.

Dứt lời gọi của Thanh Vân, như có phép màu kì lạ, người đàn ông đang thở vô cùng yếu ớt, mắt nhắm nghiền, đang chìm dần vào cõi chết, bỗng choàng
tỉnh. Đôi mắt Hùng chớp chớp, rồi từ từ mở ra, ánh mắt của anh chạm tới, bắt gặp ánh mắt của đứa con bao nhiêu năm tháng chưa hề biết mặt.

Khuôn mặt bao năm tháng khao khát mong chờ, gặp gỡ, giờ đã bên anh! Anh cũng nhìn thấy sau Thanh Vân là khuôn mặt Quyên, người anh đã vô cùng yêu
thương, tôn thờ, khắc tạc vào tâm trí. Cũng chỉ vài tích tắc thôi, trong thời khắc đã tàn sức, kiệt hơi này, anh nhận ra tất cả. Và, người ta nhìn
thấy trong đôi mắt của Hùng, người đàn ông gần cả đời phiêu bạt, có dòng nước mắt chảy chầm chậm, chầm chậm. Anh mỉm cười.

Cái phút gặp gỡ li biệt chỉ diễn ra chớp nhoáng. Ngay sau đó, đôi mắt Hùng mãi mãi khép lại. Màn hình báo hiệu tín hiệu sống vụt chớp chớp và tích
tắc sau, chỉ còn là một đường thẳng. Có lẽ hoá công đã dành phút giây sau cùng của một đời người, cũng chỉ được như vậy, cho Hùng ra đi với khuôn
mặt bình thản và nụ cười. Nụ cười cuối cùng anh để lại, dành cho cuộc sống, cho con anh, cho Quyên và cho bạn bè.

Phần cuối

Quyên như chết lặng.

Cô không dám nhìn vào linh cữu Hùng, không muốn tin vào những gì đang hiện ra ở trước mắt kia. Quyên khép mắt lại.

Tiếng nhạc vĩnh biệt vẫn nhói lên, réo rắt. Quyên mơ hồ cảm giác không khí thoắt nhirn xanh đi và khuôn mặt của Hùng chập chờn hiện ra. Không,
không chỉ khuôn mặt, cả thân thể anh thì đúng hơn! Cô như nhìn thấy Hùng từ từ thoát xác bay lên. Bóng anh lượn một vòng quanh xác rồi biến thành
một tia sáng xanh vút lên vòm tròn nhà tang lễ cao vời vợi.

Anh ấy về với ông bà, tổ tiên, quê hương! Xin anh hãy bay về nơi ấy!

Mùa đông dù trôi qua

Như bóng dáng xuân tươi phai dần

Và lá trút không vương trên cành

Dù cho bao năm tháng ấy

Mang ánh nắng đông qua xuân về

Mang nỗi nhớ anh đi chưa về

Ngàn trùng dù có cách xa.

Anh sẽ về… anh sẽ về…

Bản nhạc Khúc hát nàng Solveig của Edvard Grieg chầm chậm và tha thiết. Nó như lời vĩnh biệt, như sở cầu của những kẻ yêu thương nhau mà nay phải
mãi mãi chia lìa. Giai điệu day dứt, những âm thanh của hàng trăm cây violon réo rắt bỗng trở thành sự chia sẻ khôn cùng cho những tâm hồn, thân
phận cùng cảnh li hương đang đau xót, thương nhớ Hùng. Trong khoảnh khắc biệt li ấy, Edvard Grieg như chất xúc tác, làm Quyên thấy lòng mình càng
thêm buồn đau nặng trĩu. Xót xa khôn cùng!

Nhiều người quen biết Hùng ở Budapest tập trung ở đây. Những mái tóc chớm bạc và cả những gương mặt còn rất trẻ, trong tiếng nhạc mặc niệm họ cùng cúi xuống. Không khí nghiêm trang,
căng thẳng, làm cho bất kỳ ai cố chấp nhất cũng chợt tự nhiên bừng ngộ. Khi đứng trước một cái chết, dù ở văn hoá nào, tôn giáo nào, thì sự bao
dung đúng là chỗ dựa duy nhất, để có thể chấp nhận mọi nghi thức khác nhau, chúng song song tồn tại.

Tại Budapest, đã tám năm nay, nhiều người biết Hùng. Anh không nổi tiếng vì giàu có. Anh chỉ là một người bình thường. Cái con người có khuôn mặt
rất đàn ông nhưng khắc khổ ấy, vốn xưa là một tay giang hồ khét tiếng, bao năm rồi đã gác kiếm, trở thành một người hiền lành, ít nói và tốt bụng;
phút giây này nằm kia, xác thân bất đông. Chiếc nạng gỗ đặt dọc bên anh. Hai bàn tay đặt lên bụng. Đôi mắt khép lại, nhưng khoé môi vẫn như đang
muốn hé một nụ cười mong manh.

Quyên cố kìm nén để không khóc.

Minh đứng bên Quyên. Anh cúi đầu im lặng để mặc dòng nước mắt tuôn trào. Tiếng Huệ khóc tấm tức…

Bản nhạc vừa dứt, cỗ quan tài dần dần chìm xuống. Cánh cửa thép từ từ khép lại. Ai cũng hiểu linh cữu Hùng trong đường hầm đang trôi dần vào phòng
hoá thân.

Không được khóc! Không được khóc! Quyên cắn môi tự nhủ. Nhưng khi Huệ gào lên, gọi tên Hùng thảm thiết, tức tưởi, Quyên lại không sao nén kìm được
nữa, nước mắt cô thoắt nhiên buộc ra, chảy tràn trề, ướt đầm đôi má.

Đau xót! Quyên biết, ý thức rõ: chỉ tích tắc nữa thôi, người ta sẽ bấm nút. Trong chớp nhoáng, Hùng sẽ thành tro bụi! Đời một con người chỉ có thế
thôi ư? Người ta sẽ cẩn trọng cho vào chiếc bình gốm màu nâu chút gì tàn tro của Hùng, đấy là tất cả những gì còn lại của một con người, một sinh
linh đã sinh ra, đã sống, đã phiêu bạt bấy nay, với bao nhiêu vui, buồn, khao khát và hy vọng…

Cuộc sống, suy cho cùng, là cái gì nhỉ?

Suốt cả đời người, sao cứ phải biền biệt, phải đau khổ, vật lộn, mưu mô, khó nhọc… để rồi cuối cùng, nếu muốn trở về đất nước, tất cả, ai ai cũng
chỉ còn lại một nắm tro tàn tí tẹo teo kia? Có lẽ cuộc sống càng hoang lạnh hơn, nếu khi chết đi chẳng để lại một chút tình cảm nào cho một ai đó
còn đang sống trên thế gian này!

– Anh Hùng ơi! Em thương anh vô cùng! – Quyên muốn nói như vậy mà cô không thể cất lên lời.

Đêm ấy dù rất mệt, Quyên vẫn không sao ngủ được. Lần đầu tiên chứng kiến một lễ tang ở xứ người, cô cứ suy nghĩ mãi. Cô trằn trọc.

Quyên nhớ tới bao nhiêu việc đã trôi qua, lại nhớ tới căn phòng đã sống ở trại tị nạn, cánh cửa trắng, cái lỗ kính kiểm soát như con mắt chột. Từ
bên trong, Dũng đã nhìn ra, thấy vợ lưu lạc trở về qua con mắt chột ấy… Bao nhiêu người đã sống trong đó, trước và sau Dũng, chồng cô? Dũng mất
tích!? Anh còn sống hay đã chết? Hay anh ấy cũng tan thành tro bụi cả rồi?

Có lẽ phải tới hơn hai ba giờ sáng gì đó. Quyên mới thiếp đi.

Quyên mơ thấy một đoàn tàu dài dằng dặc… Nó y trang đoàn tàu mầu đỏ Thanh Vẫn vẫn chơi. Trong mơ cô thấy nó trắng toát. Cô nhìn rõ vô số những
quan tài đỏ và nâu. Có cả cô nằm trên con tàu ấy, trong chiếc quan tài trong vắt như pha lê. Sao mình lại nhìn thấy mình chết? Mơ hay tỉnh? Cô còn
nghe rõ tiếng còi rúc. Hệt như tiếng còi thảm thiết chia tay, rúc lên mỗi đêm vọng về khi gần sáng. Những đêm đông rét mướt, nghe tiếng còi xa xôi
rúc lên từ ga Hàng Cỏ, cô bé kéo chăn trùm kín đầu. Rồi cô thấy cả đoàn tàu chạy vào cánh rừng. Ơ, rừng này cô đã nhìn thấy nó ở đâu đó. – Trong mơ
cô tự hỏi như vậy. – Hình như cánh rừng biên giới, nơi cô bị giam giữ để rồi có thai và Hùng yêu cô. Khu rừng không có tuyết trắng mênh mông bao
phủ. Có khối lửa cháy rừng rực bên trên thảm rừng. Lửa rừng rực và cơ man những lưỡi vàng, hệt như lời Kumar từng kể cho cô nghe người chị cả của
anh đã cháy ra tro trên giàn thiêu giữa rừng hoang, bởi những lưỡi lửa vàng đã liếm trọn thân xác chị anh thế nào. Cô thét lên vì cảm thấy rất
nóng.

Chính tiếng thét ấy là bé Thanh Vân choảng tỉnh và hoảng hốt lay mẹ. Quyên thoát khỏi cơn mê.

Tỉnh dậy, cô vẫn nhớ mồn một từng chi tiết trog mơ. Như thể cô đã trải qua, chứng kiến mọi việc ấy trong cõi thật.

Danh chính ngôn thuận, Quyên chưa khi nào là vợ Hùng, cũng không phải là người bấy nay chăm sóc Hùng. Người chăm sóc suốt tháng qua lúc anh bệnh
tật hiểm nghèo, là Huệ. Thói đời, sự chiếm tình yêu đâu chỉ khi người ta còn sống!

Mấy hôm tang lễ bận rộn, Quyên chưa có dịp nào ngồi trò chuyện với Huệ để xem ý tứ của Huệ ra sao? Cô bầy tỏ việc ấy với Minh, về sự đắn đo của cô,
rằng giữa cô và Huệ, ai sẽ là người đưa Hùng về Việt Nam? Hay là cả hai? Minh ý thức ngay được sự áy náy tế nhị của Quyên. Nghe xong, anh lập tức
kéo Quyên và Huệ vào một phòng, rồi đóng cửa lại. Anh không muốn Thanh Vân nghe câu chuyện của người lớn.

Minh đi thẳng vào khúc mắc của Quyên, anh bảo:

– Em Huệ này! Bấy nay sự cố gắng, quan tâm, chăm sóc của em với anh Hùng, là một tình cảm vô cùng quý giá và những người quen biết tụi anh đều hiểu
rõ. Nhưng hiện tại, Huệ đang còn phải điều trị bệnh hàng tuần và cửa hàng cũng mới mở thêm mục bán báo và đồ lưu niệm. Em biết đấy, không thể đóng
cửa quá lâu! Chị Quyên và cháu Thanh Vân đưa anh Hùng về là hợp lẽ nhất! – Minh nhấn mạnh câu cuối cùng. Nói xong anh nhìn thẳng vào mắt Huệ với
ánh mắt thăm dò, chờ đợi.

Quyên ngửng mặt lên, cô dịu dàng nói:

– Anh Minh nói phải đấy! Huệ ơi, em cố gắng ở lại điều trị bệnh. Chị va anh Minh bàn nhau rồi, bọn chị sẽ về quê thăm bố mẹ em và cháu nữa.

Huệ nhìn Minh rồi lại nhìn Quyên. Hai bàn tay Quyên bấy giờ đưa lên nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay của Huệ. Đôi mắt của Quyên dịu dàng.

“Chị ấy và anh Minh thật lòng lo cho mình, thương mình!” Huệ chợt ôm choàng lấy Quyên. Cô oà khóc nức nở. “Hoá ra trên đời này, ở nơi xa lắc xa lơ
này, không phải chỉ có tiền! Không phải rặt là những người xấu, những kẻ chỉ xoay xoáy nhìn vào cái lõm sâu trắng mịn của cô giữa hai hàng cúc áo
hé ra, khi cô cúi xuống đơm xôi. Những kẻ thả ra dăm đồng bạc kèm một lời tục tĩu… Phải mưu sống ở xứ người, chao ôi, cái kiếp cô và chị Quyên!?
Trong lạc bước sa chân này, cô đã gặp Hùng, nay lại có thêm chị Quyên và anh Minh, những người tử tế làm sao!” Huệ nghĩ.

Hai người đàn bà ôm lấy nhau. Minh đứng dậy, anh bước ra ngoài hành lang hút thuốc. Anh không dám ngồi lại đó nhìn Huệ khóc, bởi anh không thể nào
chịu được đau đơn hơn nữa.

Chuyện của Huệ:

Em tên là Huệ. Nguyễn Thị Huệ.

Em sinh ra ở làng, cả đời chỉ biết ruộng đồng. Học tới lớp Mười trường huyện, bố em bảo, con gái thời nay học nhiều làm quái gì! Em biết, vì sao bố
em nói vậy! Nhà những sáu miệng ăn. Em là con cả. Dưới em còn ba đứa lít nhít nữa, đi học tốn bao nhiêu tiền… Cả làng chỉ làm ruộng, đào đâu ra
nhiều tiền? Nhà em có bốn sào ruộng. Một sào đất bãi. Năm nào được mùa, cả hai vụ cũng chỉ được hai ba tấn thóc. Rau mầu, chăn nuôi thêm, gọi là
chỉ đủ giật gấu vá vai. Thế là bỏ học.

Năm em mười chín tuổi, anh ấy về nước. Trong con mắt tụi em, những người ở nước ngoài trở về rõ là cực kỳ sung sướng. Ai nấy ăn mặc thật đẹp, tiền
tiêu như nước. Có hai tháng, anh ấy xin cưới. Bố mẹ em đồng ý ngay.

Về hình thức, chồng em cũng bình thường. Răng hơi vâu vâu một tí, nhưng bù lại anh ấy rất chiều chuộng em. Con gái như tụi em ở làng, lấy được một
người ở thành phố đã là ghê lắm rồi, nay lại lấy chồng làm ăn tận châu Âu, thì may mắn quá! Còn gì bằng? Cha mẹ em hả hê ra mặt.

Năm sau chồng đón em sang Ba Lan.

Tới Ba Lan mới vỡ lẽ ra rằng, anh ấy chẳng phải ông chủ to lớn gì. Chẳng phải như khi ở Việt Nam, mỗi khi tiêu pha, anh ấy cũng phẩy tay bảo: “Cứ
vô tư đi! Bằng con trâu rụng một cái lông!”

Trời ơi, mỗi tháng dành ra cho được trăm đo còn khó, nói gì tới tiền trăm, tiền ngàn bỏ lọ! Hàng ngày trong khu bán buôn “Sân vận động”, em cùng
anh ấy quần quật từ mờ sáng tới tần khuya. Ai thuê việc gì cũng làm. Tủi thân! Đêm đêm nằm nghĩ, người ta ra nước ngoài, buôn bán tiền như nước,
chồng giàu có, lên xe xuống ngựa. Mình mang tiếng đi tây, xoay đủ tiền qua ngày có khi cũng chật vật. Hận, nhớ nhà, khóc suốt. Nhưng trâu buộc cọc
rồi!

– Bố em viết thư sang nói như vậy.

Để có tiền thêm, em thổi một thúng xôi bán trong chợ. Cánh tới cất hàng, có người ở xa tới vài trăm cây. Ai cũng vội vôi, vàng vàng! Vì thế bán xôi
cũng có đồng ra đồng vào. Nhẽ ra, vợ chồng bảo ban nhau cùng chung lưng lại, chịu khó thu vén cũng có thể dư ra mỗi tháng trăm đô, nhưng anh ấy lại
cờ bạc. Nhiều người sang đây đã làm ăn không được, lại rượu chè, cờ bạc. Thời gian rảnh họ cũng buồn, nên tụ tập đánh tiến lên, sóc đia ăn tiền
ngay trong khu buôn bán. Có ngày nghỉ hiếm hoi nào, lại rủ rê sát phạt lẫn nhau ở đâu đó, vợ nào biết mà quản lí được? Nói mãi cũng như nước đổ lá
khoai. Thế là cái nhau. Người đã dính vào cờ bạc thì mê mẩn lắm, y như có kẻ bỏ bùa mê thuốc lú vào chồng em. Suốt cả năm chẳng có đồng nào gửi về
cho cha mẹ. Nhiều lúc nghĩ chán quá! Hồi ở làng, em nổi tiếng là đẹp, bao nhiêu thằng nhòm ngó, chứ ế chỏng ế trơ gì cho cam. Cũng tưởng anh ấy tử
tế, làm ăn chí thú nên theo anh ấy sang đây. Năm sau em lại có mang, thành ra vợ chồng đôi khi nặng nhẹ, cũng có lúc hòn bấc nói hòn chì đáp lại,
mất cả mặt mà vẫn phải ăn ở với nhau. Có con nhiều lần em cũng nhẹ nhàng khuyên nhủ, song anh ấy vẫn thói nào tật ấy. Lại vặc nhau. Một lần thua
bạc nhiều, cay cú, anh ấy đánh rất to để thua tiếp, nợ hơn mười ngàn đô. Thế là mấy tháng không gì trả tiền nhà, chủ nhà nó đuổi. Một người bạn
thương mẹ con em, cho về ở tạm trong tầng hầm nhà chị ấy. Em hận lắm. Năm ấy tuyết rất lớn. Con em ốm mà anh ấy vẫn đi suốt đêm, gọi mấy cũng không
thèm nhấc máy. Trưa hôm sau trở về. quần áo toàn mùi lạ! Vừa trách mấy câu, anh ấy đã chửi ầm lên, rồi tát em mấy cái. Uất ức bao lâu không chịu
được, thế là em cầm ngay cái khoá cửa. Định doạ thôi, chọi dứ một cái, không may đúng vào trán. Máu chảy ra đầm đìa … Anh ấy lu la ầm lên là em
giết chồng. Cả làng người Việt cũng kháo nhau như vậy. Chẳng còn mặt mũi nào nhìn ai cả. Nếu chỉ có vậy thôi cũng chưa thể bỏ nhau đâu. Biết lỗi,
hàng ngày em vẫn cơm nước chu đáo, quỳ xuống lạy sống anh ấy. Nhưng chồng em bắt đầu bỏ đi qua đêm liên miên. Hỏi mấy người bạn mới biết, anh vẫn
đi lại với bạn gái trước đây, thời “lao động xuất khẩu” đã từng ăn ở với nhau. Chia tay! Sao mà chịu được!

Về Việt Nam thì lấy gì mà sống? Mặt mũi nào nhìn làng nước? Ở lại, không chồng, con mọn xoay sở làm sao? Em gửi cháu về Việt Nam cho ông bà ngoại,
rồi quay lại Ba Lan.

Phục thù!

Em vẫn bán xôi ở chợ.

Duyên số cả! Mùa hè năm ấy, em gặp một người chuyên đánh hàng chuyến. Anh ấy tới mua xôi, mê em, rủ em đi làm chung, cùng đi đánh hàng sang Hung và
vài nước khác. Thú thật, em cũng không rõ anh ta lắm, chỉ biết anh ấy nhiều tiền và giao du rất rộng. Làm ăn với nhau nửa năm, em cũng được anh ấy
cho dăm ngàn, bắt đầu có tiền gửi về cho ông bà nuôi cháu. Thôi thì nhắm mắt đưa chân vào cái cảnh già nhân ngãi non vợ chồng vậy, chứ tính ra sao
bây giờ.

Chớm đông năm ngoái, chúng em đánh hàng áo giả da. Cú đầu ăn lắm. Anh vay nóng hơn trăm ngàn đánh quả quyết định, ai dè hàng Tàu ập về đột ngột. Nó
nhái y sì kiểu dáng, mà giá lại bèo vô cùng! Mấy chục ngàn chiếc áo phải bán đổ bán tháo như cho. Lỗ chỏng vó ba bốn công-tơ-nơ. Mà lại chính người
Việt mình chỉ điểm, mách nước, cung cấp mẫu hàng cho bọn họ phá tụi em mới đau chứ!

Không còn tiền trả người cho vay, sợ bị trừng phạt theo luật giang hồ, anh bỏ trốn sang Nga. Đúng vào khi khốn khó vậy, anh ấy lăn ra ốm.

Thì ra trong cảnh lang thang, nước trong nước ngoài, ăn chung ở chạ bao năm, anh ấy nhiễm HIV từ lâu mà không biết. Sang Nga trốn nợ, khi bệnh AIDS
vào giai đoạn cuối, phát nhanh ghê gớm. Tiền nong nợ nần không thể trả được, không có cơ hội làm lại, vừa tiếc của, vừa bị bệnh nan y, anh ấy tự
sát. Trước khi chết, anh ấy gửi thư cho em, khuyên em nên đi khám bệnh.

Nghe tin ấy, em rụng rời và đi xét nghiệm. Khủng khiếp quá, cái cảm giác khi cầm giấy xét nghiệm dương tính chị ạ. Anh ấy thân một mình, em đây còn
một đứa con ở Việt Nam, Em chán đời quá! Cũng không đóng tiền bảo hiểm nên chẳng dám đi chữa bệnh. Sợ nhất là tâm lí, lộ ra bị AIDS, em sẽ bị cả
cộng đồng dè bỉu, khinh bỉ, ghê tởm. Cứ lang thang…

Em uống rượu, hút thuốc và đi ăn cắp trong các siêu thị. Em nghĩ, em chết thôi, trước sau chết thôi! Cố kiếm lấy dăm ngàn gửi về đỡ cho ông bà nuôi
con em, rồi chết! Bây giờ thân một mình, một thúng xôi, bán mỗi ngày, lờ lãi hai ba chục đô! Con em còn kia, em chết bỏ lại gánh nặng cho ông bà.
Ăn cắp là cách nhanh nhất để có tiền! Hai ba tháng trôi dạt, nhìn vào ga bến bãi… nơi nơi mới thấy, lắm kẻ ăn cắp lắm! Mỗi đứa một kiểu ăn cắp.
Đâu chẳng vậy! Em và bọn móc túi ở các nhà ga chỉ là bọn cắp vặt thôi! Cắp vặt thì dặt dẹo qua ngày! Kẻ cắp lớn, cướp nhà băng, cướp lớn mới có
tiền, mà em thì thân cô thế cô, sao có tiền nhanh hơn cái chết đang vùn vụt tới, biết rõ nó đến trong từng tích tắc.

Hai ba tháng kham khổ, chiu lủi, có bữa ngủ chung ngủ chạ với bọn ngẫn bản địa suốt ngày say sỉn, người em bạt đi, khô quắt như cây muồng muồng
héo. Một lần, vừa lấy được vài thỏi son, dăm típ kem chống nhăn cao cấp đút vào túi, vào cả áo trong, thì bị phát hiện. Nhân viên cửa hàng túm em ở
bên ngoài quầy trả tiền. Em dứt được ra, bỏ chạy. Đường phố khi ấy dòng người cuồn cuộn cuốn. Em lẫn vào họ. Cứ chạy, chạy đến khi mệt quá, dừng
lại một góc khuất, nơi lên xuống S Bahn, rồi ngã lăn ra. Cũng không biết em chết giấc bao lâu. Có ai đó lay em dậy. Mở mắt ra thấy anh Hùng ngồi
trước em rồi.

Tỉnh dậy. Nhìn thấy lơ mơ khuôn mặt anh Hùng, thoáng nghĩ: làm quái gì mà nhìn tao như vậy? Chó! Lại một thằng chó. Đấy là khi người ta mơ mơ màng
màng, không còn biết gì, quên phắt khi ấy mình đã thân tàn ma dại. Tại sao lại nhớ đôi mắt chó? Hồi bên Ba Lan bán xôi, da dẻ còn mỡ lắm, cúi xuống
đơm xôi, thể nào cũng có thằng nhìn trộm qua cổ áo. Có thằng đểu còn thả tiền vào đấy rồi hô hố cười. Về sau, anh Hùng kể, đôi mắt em bấy giờ nhìn
anh cô hồn. Cũng chỉ cô hồn có vài giây thôi, vì em sực nhớ ra, vừa chạy cảnh sát, đầu còn ong ong…

Khốn nạn! Khi người ta ý thức rõ cái sự tàn lụi của chính mình, trước một kẻ khác giới, trong hoàn cảnh như em bấy giờ, thì thực thảm hại, ê chề
quá. Quê em, người ta có câu: Đẻ con khôn mắt 1, rười rượi/Đẻ con dại thảm hại cái 1. Giá mà có mẹ em ở đó, phải chứng kiến cái cảnh em đi ăn cắp,
chạy trốn để ngồi trước một người đàn ông Việt, trong dạng thảm hại như vậy, chắc bà sẽ chửi cho đúng câu như vậy!

Rõ ràng, trước mặt em không phải là chó. Đôi mắt người ta nhìn mình như thăm hỏi, muốn chia sẻ, giúp đỡ, không để cáng, ấy là đôi mắt đàn ông. Thế
là em oà khóc. Khóc thật sự và có lẽ đến chục phút, anh ấy để mặc em khóc chán khóc chê. “Rồi, khóc đủ chưa? Đứng dậy theo anh!” Anh Hùng nói vậy
mà em cứ như bị thôi miên, đứng lên, theo chân anh vào một tiệm cà-phê dưới tầng hầm nhà ga. Tại quán cà-phê đó, em kể cho anh Hùng nghe hết mọi
việc. Hoá ra ânh ấy cũng biết em từ ngày còn cặp bồ, đánh hàng xuyên biên giới. Nhìn thân hình tiều tuỵ của em, nghe chuyện em kể, đôi mắt anh ấy
dân dấn như chực khóc. Mãi sau này, thân nhau rồi, có bận em trêu: “Mặt mũi đàn ông, phong trần, tưởng anh hùng lắm, thế mà cũng hèn!” Anh ấy cười,
nom thật hiền khô và bảo: “Anh thế đấy! Cô thử bảo ai cầm dao, gí súng doạ anh, xem anh có hèn không.” Đàn ông ấy mà, khổ đau nhiều, oan trái lắm,
mà có biết khóc được, thì dù mặt mũi có ghê gớm đến đâu cũng chỉ là cái vỏ che chắn cho một trái tim dễ vỡ mà thôi!

Thế là anh ấy lái ô-tô đưa em về nhà.

Hôm sau anh Hùng đưa em đi trình diện tổ chức phòng chống AISD của thành phố. Đầu tiên em cũng ngại quá, vì ngượng vô cùng. Nhưng anh dỗ dành và
nói: “Cô dở hơi bỏ mẹ! Cái thằng tiếp cô, giảng giải cho tụi mình, nom lịch sự thế, com-lê, cà-vạt, cổ cao áo trắng cũng dính si-đa đấy. Người ta,
những người hiểu biết ấy mà, chẳng ai khinh bỉ cô đâu!” Lại bảo:

– Cô muốn chết thì chết quách đi như con chó ghẻ đi hoang, biết đâm đầu vào xe hoả tự tử, là rảnh nợ mình cô, nhưng còn ai nuôi cô nữa?

Ai nuôi con mình nữa? Câu hỏi ấy làm em trằn trọc mấy đêm. Anh ấy nói đúng. Hoá ra trên đời này, chết có khi dễ hơn khi phải sống để dũng cảm vượt
qua mọi khó khăn vì người khác, vì con mình, vì cha mẹ mình. Trả lời được câu hỏi ấy, tự nhiên em bớt ngượng. Em điện về, kể rõ sự việc với mẹ em.
May quá, cháu nó đi khám, âm tính. Từ đó em ở lại với anh Hùng. Thời gian trôi đi, em dần hồi người, có da có thịt, dần bình tĩnh lại. Em nghe lời
anh thường xuyên tới phòng chữa trị. Nhưng điều đáng mừng nhất là em bỏ đi cái mặc cảm: mình là của nợ của thiên hạ. Anh Hùng giấu kín việc em bị
bệnh. Anh bảo ban em buôn bán, nhiều việc trong cách bán hoa. Công việc bán hoa cũng khá vất vả. Anh Hùng đi lại khó khăn, tập tễnh cái chân gỗ mà
vẫn phải tuần hai lần đi mua hoa. Dậy rõ sớm, lạnh mấy cũng đi từ ba giờ để chọn được hoa tươi. Thương anh, em nói ra miệng. Nghe xong anh bảo, cô
thương anh, tập lái xe đi. Vận động nhiều, buồn chỉ đủ buồn thôi, chắc còn sống dai hơn cả anh. Biết mèo nào cắn mỉu nào?

Không chỉ cơm nước, giặt giũ, chợ búa… em học cách giữ hoa tươi lâu. Bán hoa thì việc bó hoa là khó nhất. Làm sao cho nó lạ, nó đẹp, đúng cái
nhìn, ý thích của người châu Âu. Được vài ngày, thấy em tập bó hoá, anh ấy cấm, vì khi người ta bó hoa, hay bị gai nhọn đâm vào gây chảy máu. Phát
hiện ra điều đó, anh Hùng không để em bán hoa nữa mà chuyển sang bán quầy báo và đồ lưu niệm. Anh bảo, em đỡ anh là tốt, nhưng nên đề phòng lây
nhiễm cho khách hàng. Con người ta lương thiện, văn minh là ở chỗ, làm bất kì cái gì cũng đừng để người khách ảnh hưởng, thiệt hại…

Anh ấy rất nghiêm khắc, hàng tối bắt em học tiếng Hung. Anh ấy luôn động viên em và một hôm nói, anh rồi cũng chết thôi, để lại cửa hàng này cho em
kiếm tiền nuôi con. Hình như anh ấy linh tính điều gì đó đang tới, hay anh ấy biết điều gì đó bất ổn mà giấu em. Một tối tự nhiên anh ấy kể chuyện
cho em nghe cuộc đời anh.

Hoá ra anh ấy cũng có cuộc sống ê chề quá, gian khổ quá. Anh ấy kể cho em nghe về vợ cũ của anh, về chị và những dằn vặt đau đớn của anh bao nhiêu
năm qua. Em chỉ biết nghe! Thương anh, nhưng chỉ dám ngồi im lặng nghe.

Thực tâm mà nói, em yêu anh ấy, yêu lắm! Bởi anh Hùng thật sự là một người đàn ông. Em nghĩ, ngoài cha mẹ em ra trên cõi đời này, chẳng ai đối xử
tốt với em như anh ấy. Nhưng em biết, anh ấy không yêu em! Anh ấy chỉ yêu chị thôi! Anh ấy thuộc từng cử chỉ, điệu bộ của chị, nhớ cả cái lọn tóc
đen thấm lại ánh ánh nâu, hai cuộn búp thường xoã trên bờ vai chị… Em thề, em chưa thấy có người đàn ông nào yêu như vậy! Si mê quá, cuồng say
quá! Tự dung, em lại thấy ghét chị. Ghét sự thực. Mà không phải chỉ ghét. Em căm thù chị! Căm thù một cách cay đắng. Dù chưa gặp chị bao giờ. Em
xấu xa quá, phải không? Biết làm sao? Tâm địa đàn bà…

Rồi một tối khác, em làm chả xương sông, Tuyết rơi mù mịt ngoài cửa sổ. Hai anh em chuốc rượu nhau. Anh Hùng uống hơi quá chén. Rồi anh ấy khóc.
Trời ơi, anh ấy khóc.

– Anh không tốt đẹp tử tế như em nghĩ đâu!

Anh là một thằng khốn nạn! Đúng là một thằng khốn nạn! Nhưng mà, cô ấy đẹp quá. Đẹp dã mãn! Đẹp không thể chịu nổi. Giá như anh là một khúc gỗ mục?
Ừ, giá như anh là một khúc gỗ mục thì hay biết bao nhiêu, vì như thế, anh đã trở thành một kẻ tử tế và, biết đâu cô ấy sẽ yêu anh. Nhưng không! –
Anh ấy lắc đầu buồn bã – Anh lại là một con người. Một thằng đàn ông hoàn toàn khoẻ khoắn và lành mạnh. Khốn nạn!

Anh lại khóc. Đập đầu vào tường mà khóc. Anh ấy không say rượu đâu. Không say!

– Em biết không? Đàn bà đẹp dễ sợ. Nhưng có người đẹp, làm cho người ta muốn yêu. Yêu đến lú lẫn, để người ta muốn chiếm đoạt, muốn hiếp. Cô ấy là
như thế đấy. Và anh đã biến thành súc vật. Cô ấy không bao giờ tha thứ cho anh cả. Trời đất ơi!

Bao năm tháng rồi, anh ấy luôn bị giày vò, ân hận về những gĩ đã gây nên cho chị. Anh ấy luôn nghĩ tới con, tới chị. Và, mỗi khi nhắc đến chị, anh
ấy lại bảo, chẳng bao giờ cô ấy tha thứ cho mình! Chị ơi, có lẽ, ở một con người qua bao nhiêu phong trần như anh ấy. Cũng chính sự thanh cao cho
anh ấy còn biết tin và hy vọng, chờ đợi! Em biết anh ấy mà. Không còn sự đau đớn nào hơn thế! Tuần gần đây, khi đã rất yếu, sắp mất, anh ấy vẫn hy
vọng, vẫn tin chị sẽ tới, Thanh Vân sẽ tới. Cứ nhắc đến việc chị và con của anh ấy sẽ tới là anh ấy tỏ ra muốn sống lắm. Kì lạ thật!

Như vậy là rõ rồi! Quyên yên lặng đứng dậy bước ra ban công, để mình Minh ngồi lại an ủi Huệ. Gió lạnh ngoài ban công quất vào mặt giúp cô đỡ chấn
động, bởi nếu còn ngồi bên Huệ, suýt nữa cô oà khóc. Trong màn trời đêm thăm thẳm, cô tưởng thấy khuôn mặt của Hùng, lúc anh ấy quỳ xuống, ôm lấy
cô, áp tai vào bụng cô, trên cái thảm lá xơ xác vàng khô của mùa đông năm ấy. Cô nhớ, khi anh áp tai vào nghe tiếng tim của con anh, khuôn mặt đàn
ông phong trần chợt trở nên thơ dại như đứa trẻ, đáng thương làm sao. Cái phần tử tế và tốt đẹp nhất của anh chưa khi nào bị thui chột, dù số phận
có lúc đẩy anh tới tận chân tường.

Dăm ngày sau đám tang của Hùng, Budapest bừng nắng. Buổi trưa, không một gợn mây, trời rõ nắng là nắng. Nắng vàng ươm, trời ấm lên rõ rệt. Người ta
cứ ngỡ như mùa thu bất ngờ quay trở lại.

Để giết thời gian chờ đợi, mong ai nấy bớt đi u buồn, Huệ đưa Quyên và Thanh Vân đi thăm vài nơi trong thành phố. Tới cây cầu Margaret Bridge, họ
đi bộ từ phố Dozsa Guoerge u’t xuống phố Korepesi u’t. Tại một ngã ba, Huệ dừng lại khá lâu. Nom cô ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Dường như cô đang muốn
tìm lại điều gì ở nơi đó. Lát sau cô ngậm ngùi bảo, chính chỗ này đây, anh Hùng dắt tay em qua đường, tới bãi để ô tô. Đó là ngày đầu tiên em về
nhà anh ấy. Quyên nhớ ra, từ lúc ra khỏi nhà đi chơi, đi đâu Huệ cũng bảo, em và anh Hùng từng đi qua đây. Có một thời gian không dài sống với Hùng
mà cô ấy đã có bao nhiêu kỉ niệm!

Người ta, khi thương yêu nhau, sao tâm trạng giống nhau vậy! Anh Hùng từng đã dẫn Quyên đi một vòng, dạo chơi trong đường rừng quanh ngôi nhà gỗ,
đạp chân trên cái thảm lá vàng ươm, quanh co nơi biên giới… Nhớ về buổi chiều dạo chơi cuối cùng, duy nhất ấy, Quyên hiểu, anh mong cô có giây
phút thảnh thơi, tươi đẹp, để một chút thôi nhớ về anh. Quyên đoán vậy, bởi buổi tối trước, Hùng có nói, người ta muốn nhớ thương nơi đâu, cái gì,
vùng đất nào, con người nào, phải có kỉ niệm! Hôm nay đây, Huệ nhớ kĩ từng dấu chân của Hùng nơi thành phố diễm lệ này. Tình yêu mấy khi bằng
phẳng, có bao nhiêu dòng chẽ như ngã ba sông kia? Tất cả đã xa rồi! Trên cây cầu Margaret, Quyên lặng lẽ, đăm đăm nhìn xuống dòng sông trôi, âm
thầm suy cảm.

Thương thực lòng, anh Hùng ơi! Mọi cái gì thuộc về vật chất đều có thể huỷ diệt, trôi theo thời gian, chẳng thể quay lại. Nhưng có lẽ, nỗi nhớ về
nhau, về những điều tử tế và tốt đẹp, em chẳng khi nào quên anh đâu! Cũng như hôm nay, chỉ một dấu chân vô hình nho nhỏ, với Huệ lại có sức sống kì
lạ làm sao?

Cũng trên cây cầu có thể nhìn thấy ngã ba con sông chảy qua Budapest, Quyên giật mình khi chợt nhìn thấy một người Phi nom giống Kumar đi qua nơi
họ ngồi. Cô thì thầm nói với Thanh Vân “Con không nhớ Papa à?”

– Con nhớ chứ. Trong đầu con đây này! – Điệu bộ Thanh Vân như người lớn, nó lắc lư, nhún nhảy và chỉ vào đầu, rồi nhoẻn miệng cười.

– Bao giờ Papa tới hả mami? – Nó hỏi.

Quyên im lặng. Thanh Vân nũng nịu:

– Mami! Mami nói đi! Papa bây giờ ở đâu?

Quyên ngồi xuống, vuốt tóc nó, ôm con vào lòng. Gió trên cây cầu thổi mơn man thoa trên làn má Quyên. Khi hai mẹ con đứng lên, vịn vào thanh ngang
trên cầu cùng nhìn ra xa xa, tà áo man-to dài đến chân của cô và con bay chấp chới. Cảnh trí ấy, nhìn từ xa, bóng nọ hằn lên trời xanh, nom sinh
động, tựa như một tượng đài Mẹ con bên nhau. Không hiểu sao khi ấy, cô lại nói đùa với Thanh Vân:

– Papa Kumar của con đang ở trên trời!

Giờ này, không biết anh ấy có nhớ tới mình không? Anh ấy sẽ nhớ tới mình! – Quyên tin chắc chắn như vậy. – Không biết anh ấy và mẹ anh nói chuyện
tới đâu rồi?

Quyên lục túc lấy điện thoại, bấm số. Trời đất ơi, máy của cô là loại trả tiền trước, tài khoản đã hết sạch tiền lúc nào mà cô chẳng để ý. “Không ở
Đức, sao cô có thể tìm chỗ nào để nạp tiền được?” Quyên nhìn màn hình, những chục cú phôn Kumar gọi nhỡ. “Thôi, để về nước sẽ gọi cho anh ấy. Chắc
giờ đây, Kumar đã đọc thư và anh ấy sẽ hiểu, thông cảm cho mẹ con cô cả thôi.” Quyên tin là như vậy! Tâm trạng ấy của Quyên cũng dễ hiểu. Cô nửa
muốn gọi cho Kumar khi thực sự nhớ anh, lại nửa không muốn gọi khi đinh ninh rằng, cạnh Kumar khi đó còn có người mẹ của anh. Quyên không hề biết,
Kumar của cô đã được sự đồng ý của mẹ anh đi tìm hai mẹ con cô. Quyên tắt nguồn điện máy điện thoại, thả nó vào túi sách.

Thật buồn cho mẹ con Quyên, khi họ chẳng hề biết: ngay hôm sau, khi cô và con cùng Minh chuẩn bị lên máy bay về quê hương thì Kumar của cô đang
trên chuyến tầu nhanh tiến dần vào nhà ga Budapest.

Thật ra, thoạt đầu Quyên không muốn báo cho ai ở Việt Nam biết việc cô trở về. Cô ra đi với chồng, có biết bao sự việc phức tạp đã xảy ra sau đó,
nay trở về, có thời gian đâu mà thanh minh! Nhất là cô sợ mẹ lại thổn thức mất ngủ. Nhưng còn lọ tro của Hùng sẽ giải quyết ra sao? Tục lệ ở Việt
Nam, cô và Minh biết rõ, không ai cho phép mang lọ tro của một người như Hùng về nhà. Cô và Minh cũng cố gắng “hết nước hết cái” truy tìm ở tất cả
các giấy tờ, vẫn không thể biết chính xác địa chỉ, quê quán Hùng ở đâu. Trên tất cả các loại hồ sơ, giấy tờ của Hùng để lại, chỉ thấy ghi vài dòng
chung chung: Nguyễn Văn Hùng. Nơi sinh Thái Bình. Thái Bình thì có hàng vạn người tha hương, bạt xứ, biết tìm nơi chôn nhau cắt rốn chính xác của
anh ở đâu!? Hoá ra, bao nhiêu năm nay, Hùng là người không một địa chỉ cụ thể. Cũng nghe Minh nói, từ ngày cha mẹ Hùng mất, vợ chồng bỏ nhau, Hùng
chẳng liên lạc với bất kì ai trong nước. Anh là một kẻ không xuất xứ, một loại người vô tăm tích, ngoài cái quốc tịch Việt Nam!

Vậy có thể an táng Hùng tại đâu? Người thì bảo, gọi điện về cho ai đó quen biết, tìm mối manh mà chôn ở khu Bất Bạt hay Thanh Tước. Kẻ thì bảo, mua
một khoảnh nào đó tại Thái Bình. Ô kìa, sao đơn giản thế? Ai sẽ hương khói hàng năm cho anh ấy yên nằm, ấm áp? Hay lại như bao nấm mồ hoang lạnh và
nay mai sẽ lại mất hút, lại là đống đất vô tăm tích? Quyên nghĩ nát cả óc. Trong đêm, Quyệt chợt nhớ tới cái mảnh vườn của bà nội để lại. Khoảnh
địa táng ở góc vườn quy tập mồ mả ông bà và cha Quyên ở đó. Quyên nhỏm dậy nhìn sang bên cạnh. Thanh Vân đang ngủ, miệng nó như hé cười. Quyên thấy
nó có nét vừa giống Hùng ở khuôn mặt thanh thanh, cái mũi cao và thẳng, lại giống mẹ cô ở cái miệng luôn tươi. Môi nó mọng và đầy đặn, chứ không
như cái miệng nhỏ khem khép của Hùng.

Sớm sau, Quyên gọi điện về nhà, trình bày với mẹ tất cả vướng mắc đang làm cho cô không có phương cách giải quyết, khi mẹ con cô muốn về thăm bà:
“Con có mang theo tro cốt của bố Thanh Vân mẹ à! Anh ấy tên Hùng. Con biết, tục lệ ở ta không cho mang anh ấy vào nhà. Chúng con không thể để anh
ấy ở lại đây. Càng không muốn an táng anh ấy ở tận đẩu tận đâu, không ai thân thích. Mẹ xem có giúp tụi con an táng ở đâu cho Thanh Vân sau này khi
tới thăm bố, nó không tủi hờn…” Bên kia, mẹ cô im lặng nghe. Có lúc Quyên suýt oà khóc, khi phải nhớ lại, suy tính, chắp mối từng sự kiện, để kể
cho mẹ. Tất nhiên cô giấu kín những việc tày trời Hùng đã gây ra cho cô ở khu rừng biên giới. Giải thích việc có con, cô chỉ nói vẻn vẹn, con bị
kẹt ở biên giới gần một năm và đã nhờ cậy anh Hùng. Thế thôi, đó là lần đầu tiên trong đời, cô đã nói dối mẹ.

Thuật xong mọi việc, cô thở hắt ra. Nhẹ cả người! Minh và Huệ ngồi kế bên. Cả hai dường như cùng nín thở.

Mẹ cô im lặng vài giây rồi hẹn:

– Con đợi mẹ một hai ngày nữa, mẹ sẽ tìm cách giúp con!

Chỉ có câu trả lời ngắn thế thôi, mà sau khi Quyên buông máy điện thoại, ba kẻ tha hương ôm chầm lấy nhau. Thanh Vân vừa ở ngoài đường về. Nó chẳng
hiểu, mẹ và hai người kia vì sao vừa buồn chưa dứt, nay lại hơn hớn thế kia? Người lớn đôi khi cũng thật trẻ ranh. Họ khác quái gì tụi bạn nó ở
trường, hơi một tí thì đập tay chan chát vào nhau, hoặc là ôm chầm lấy nhau thành một khối.

Một ngày trôi qua, rồi một ngày nữa, trong đợi chờ câu trả lời của mẹ, Quyên vô cùng căng thẳng, hồi hộp.

Mẹ có hiểu rõ lời đề nghị của cô không? Với lại, còn họ hàng của cô nữa, liệu mọi người sẽ phản ứng ra sao với việc cô trở về, lại mang theo một lọ
tro cốt? Cô và Minh đều biết rằng, giải quyết cho ổn thoả việc an táng Hùng, là cả một vấn đề chẳng hề giản đơn. Nhưng cô vẫn tin, mẹ cô là người
luôn tất cả vì cô, luôn che chở cho cô. Bà vẫn thường nói vì con ngon rau là gì. Nhất định mẹ sẽ giúp mình! Quyên hy vọng và tin điều tốt lành sẽ
tới với Hùng, với cô, cho cả Huệ và Minh. “Cầu trời cầu Phật! Mẹ ơi, mẹ giúp con nhé!” Đã bao lần trong đêm, cô hướng về phía phương Nam. lẩm nhẩm
cầu nguyện như vậy.

Hai ngày chờ đợi căng thẳng với bao nhiêu thấp thỏm rồi cũng qua đi. Quyên hồi hộp nghe tiếng mẹ nói rành rọt qua điện thoại:

– Mẹ đã bàn, thuyết phục được mọi người trong gia đình rồi. Con cứ đưa nó về Việt Nam. Trước kia, mảnh đất ấy, khoảnh địa tàng nhà ta chỉ dành cho
người trong gia đình. Nhưng trường hợp các con như vậy, chẳng nhữ lại để bố của Thanh Vân mãi ở lại nơi đất khách… Thôi, cả họ ta đều đồng thuận,
coi Hùng như con cái nhà lang bạt và bất hạnh. Làm phúc, không phải tội con ạ!

Quyên lặng người bên máy sau cuộc điện thoại với mẹ. Cô ngồi thần ra một lúc, rồi chạy đi tìm Minh, kể lại cho cậu ta nghe rõ ngọn ngành cuộc nói
chuyện qua điện thoại với mẹ cô. Minh cũng bàng hoàng khi nghe Quyên thuật lại mọi việc.

Thế là rõ cả rồi! “Cuối cùng vẫn là mẹ. Mẹ Quyên dang tay đón bình tro của Hùng.” Minh thầm nghĩ.

Ba ngày sau, Minh lấy được vé về Việt Nam. Anh hớn hở cầm vé của hai mẹ con Quyên chạy nhanh về nhà Huệ. Quyên nhận hai chiếc vé máy bay trong tay,
thẫn thờ tới vài giây. Thế là sắp được về với mẹ! Cô chẳng ngờ, chuyến đi của cô sang Hung, đỉnh chỉ thăm Hùng vài bữa, lại ngoặt sang một khúc
quanh, để trở về quê hương nhanh thế này. Quyên buộc miệng hỏi:

– Bay về Việt Nam hết mấy tiếng?

– Mười bốn tiếng.

Mười bốn tiếng! – Quyên nhẩm tính – Ngày cô đi Nga, máy bay bay hết mười hai tiếng. Từ Nga sang Đức, quãng đường chỉ còn một phần năm, mà cô phải
đi hết gần hai tháng. Bây giờ trở về, tất cả quãng đường dài ấy, chỉ bay vẻn vẹn hết mười bốn giờ. Trái đất vẫn như vậy, nào có to lên hay nhỏ đi
đâu? Chỉ khác là, càng ngày, bằng với nhiều loại phương tiện hiện đại, người ta có thể vượt qua biên giới của nhiều nước trong một giờ, thậm chí
vài khắc. Thế mà giờ đây, ở đâu cũng vậy, anh bạn Minh kia chẳng biết, đâu là nơi bình an cho riêng anh. Chuyến về này, cô sẽ có cảm giác ra sao?
Liệu Hà Nội của cô có lạ lẫm với chính cô không? Liệu cô có bị sang chấn tâm lí, để rơi vào tâm trạng như Minh, thấy ở đâu cũng lạc loài không? Hay
bởi con người ta, trót đi rồi cứ phải đi mãi, đã lạc loài một lần rồi, sẽ trở thành lạc loài tới chết và một ngày nào đó lại trở về như Hùng, trong
chiếc bình gốm kia? Tại sao? Tại sao? Quyên bỗng nhiên thấy buồn vô tận. Ơ kìa, Quyên, mi phải vui lên chứ, sắp trở về gặp mẹ rồi cơ mà! Quyên tự
nhủ. Bất giác cô quay sang ôm chặt lấy Thanh Vân.

Đêm trước khi bay về Việt Nam, Quyên thật khó ngủ. Cả một ngày nháo nhào cùng Huệ đi dăm cửa hàng, mua thêm quà cho mọi người làm cô thấm mệt. Thế
mà tối ấy, trên giường nệm, ban chiều Huệ vừa mới thay drap, chăn, gối, tất cả thơm phưng phức, ấm áp và êm dịu, mà cô cứ xoay ngang lại xoay dọc.
Gần sáng, Quyên choàng ngồi dậy, lần sờ va-li, sắp xếp hành lí thêm một làn nữa cho gọn gàng. Khi cầm tới chiếc máy điện thoại hết pin nhét vào
trong đôi giầy vừa mới mua cho mẹ, Quyên lại nhớ tới Kumar.

Thực ra mấy tuần nay, có ngày nào mà cô không nghĩ đến anh. Cô giấu kín trong lòng nỗi nhớ ấy. Cũng mấy lần, cô tìm tới trạm điện thoại tự động
định gọi cho anh, rồi lại thôi. Điều cô ngần ngại nhất là, khi cô gọi điện thoại lại có mẹ anh ấy bên cạnh. Cô không muốn như vậy. Bình thường,
việc có ai bên cạnh Kumar, khi họ nói chuyện với nhau cũng có sao. Nhưng giờ đây, khi quan hệ giữa họ đang có vấn đề khúc mắc với mẹ Kumar thì
Quyên chẳng muốn mẹ Kumar biết cô liên lạc với anh. Thế đấy, tính cô vậy! Không biết giờ này, anh ấy đã thuyết phục được mẹ chưa? Bao nhiêu lần cô
cứ tự hỏi như thế. Đã gần ba tuần trôi qua, Kumar và cô không trò chuyện với nhau rồi. Không biết tin nhau, nhưng Quyên tin và hy vọng là đọc xong
lá thư cô, Kumar sẽ hiểu việc cô và Thanh Vân bay về Việt Nam sớm mai với bình tro của Hùng. Đúng, Kumar là người đàn ông độ lượng và nhân hậu. Anh
ấy lại vô cùng yêu thương mẹ con cô nữa. Sao anh ấy có thể hờn giận? Cô mong thời gian trôi nhanh để biết rõ ý tứ của mẹ Kumar đã quyết định ra
sao. Quyên nhẩm tính, nếu theo kế hoạch của Kumar, thì chỉ vài ngày nữa, mẹ Kumar sẽ quay về nước Anh. Có thể bây giờ Kumar đã nói mọi chuyện với
mẹ rồi. Hay là ngày mai, trước khi bay, cô sẽ gọi điện cho anh ấy! Nếu mẹ anh ấy dứt khoát không đồng ý thì sao? Kumar thì đáng tin lắm, nhưng liệu
anh có dám vượt qua mọi trở ngại để tiếp tục sống với mẹ con cô không? Tất nhiên Kumar không thể dối trá mẹ và như vậy anh ấy không thể ở lại, tiếp
tục sống với mẹ con cô? Nếu mọi sự đúng như cô nghĩ, cô sẽ sống thế nào? Cô sẽ rời bỏ nhà cũ, tới một vùng nào đó ở Đức, hay cô ở lại Việt Nam? Nếu
cô sống tại Đức, thi thoảng lại nghe tin Kumar thì sống sao nổi? Người ta có thể khuất mặt cách lòng, chứ dạng người như cô thì sao sống như vậy
được? Về Việt Nam? Nếu bỏ nước Đức, Thanh Vân tất nhiên nhiều bỡ ngỡ! Cô sẽ thu xếp cho con ăn học ở đâu đó như trăm ngàn đứa trẻ hồi hương khác và
nó sẽ ăn học ra sao? Con người ta mỗi một lần di chuyển lại phải làm quen để thích nghi với mọi sự sinh hoạt mới. Điều ấy ở trẻ con, không khó khăn
như người lớn. Thanh Vân có thể quen nhanh với môi trường mới. Nhưng là mẹ, chính cô lại là người phải lo toan suy nghĩ nhiều. uỵch xuống một nơi
nào đó là xong chuyện! Di chuyển về quê, bao nhiêu việc nữa để mưu sinh? Cô và con sẽ sống ở đâu? Về nhà chồng cũ thì không thể được rồi. Về nhà
của cô trong ngôi nhà thân yêu ấy, giờ đây đã có thêm gia đình anh chị và các cháu của cô nữa, rồi sẽ ra sao? Mẹ và anh chắc chẳng ai nỡ không đùm
bọc mẹ con cô, nhưng sẽ làm gì để sống và nuôi Thanh Vân ăn học? Xa nước bao nhiêu năm rồi, mọi việc sẽ lại bắt đầu từ con số không? Kiểu nào cũng
dang dở, chẳng yên. Cô thì thế nào chẳng xong, vì cô bầm giập như thế thì dù có phải làm quen lại với một nếp sống mới cô sẽ vượt qua thôi. Nhưng
còn một điều rất hệ trọng với Thanh Vân cũng cần đắn đo cân nhắc! Nó vừa mất bố, nay lại vĩnh viễn mất Kumar? Rồi tâm hồn nó sẽ ra sao trong hai
vết thương này? Nếu như vậy thì thật buồn. Cô tự biết, con người ta nào dễ quên đi, đoạn tuyệt với quá khứ. Phiêu bạt sang Đức, cả khi bất hạnh lẫn
khi may mắn, có bao giờ cô quê đi những năm tháng ở quê hương? Thanh Vân cũng vậy thôi. Nó có tuổi thơ ở đây, một người vô cùng thân yêu nó là
Kumar, papa của nó. Vậy mà sau này, dù ở đâu, sao nó có thể quên đi những năm tháng với biết bao kỷ niệm vui buồn cùng Kumar? Cả Quyên cũng vậy.
Trong cuộc sống hàng ngày, nếu cô biết ơn nhớ mãi một ánh nhìn thiện cảm, chia sẻ khi hoạn nạn nơi đất khách, thì sao cô quên được Kumar? Nghĩ tới
đấy, Quyên bỗng nhiên buồn quá. Trái đất này, rộng lớn, bao la biết nhường nào, chẳng nhẽ lại không có một nơi nao, dù bé tẹo tèo teo, cho mẹ con
cô làm chốn nương thân bình yên? Bình yên, một gia đình yên ấm có một người chồng yêu mình hết lòng như Kumar chả hạn, đó là điều giản dị mà một
người phụ nữ bình thường như cô khao khát, áo ước nhất bấy nay. Không biết giờ đây Kumar đã thuyết phục mẹ anh đến đâu rồi? Bao nhiêu năm rồi, cô
và Thanh Vân gắn bó với anh, chia sẻ đủ mọi hạnh ngộ trên xứ người với anh! Lần này, khúc quanh này, cô và Kumar sẽ đi về đâu? Người ta trong cuộc
sống đấy bất trắc này, sao có thể sống thiếu một tình yêu cho đúng nghĩa yêu nhau ở trên đời? Cô cần Kumar, yêu anh. Thanh Vân cũng cần anh. Kumar
có dám với cô tới cùng trời cuối đất không? Hay lần này, niềm hạnh phúc bấy nay lại một lần nữa vuột khỏi tay cô? Nghĩ thế lòng Quyên bất giác đau
nhói. Muốn khóc mà chẳng được.

Cứ miên man nghĩ quanh nghĩ quẩn với bao nhiêu câu hỏi, Quyên không thể nhắm mắt, cứ chong chong tận tới sáng.

Đêm ấy, Kumar cũng thức suốt trên chuyến tàu nhanh về Budapest. Càng gần tới đích, anh càng hồi hộp, tràn trề hy vọng. Trong suốt cuộc hành trình,
anh luôn tưởng tượng ra khuôn mặt thân yêu của Quyên. Cư nhắm mắt lại thì hình ảnh Quyên và Thanh Vân lại hiện ra, rõ mồm một. Anh nằm, ngồi, đi
lại trong hành lang con tàu vẫn cứ nghĩ mẹ con Quyên, tưởng tượng ra giây phút gặp gỡ. Anh sẽ nói ngay với Quyên rằng, chính mẹ đã bảo anh đi tìm
Quyên và Thanh Vân. Tất nhiên, thể nào, sau đó, anh sẽ bàn với Quyên về một lễ cưới thật sang trọng.

Con tàu sắp vào ga Budapest, Kumar đã đứng sẵn ở cửa lên xuống. Cửa tự động vừa mở, anh đã lao nhanh xuống sân ga như ngọn gió. Đi như chạy. Vừa đi
vừa móc mảnh giấy ghi địa chỉ của Hùng. Anh nhao lên chiếc taxi đầu tiên trông thấy.

Người lái taxi từng hiểu rõ những ông khách vội vã ngược xuôi như người da màu này. Đoán chừng Kumar hẳn có việc gì gấp lắm, nên ông nổ máy ngay,
không nói nửa lời. Kumar đưa tờ giấy cho lái xe. Người lái xe taxi già ấy chỉ liếc mắt nhìn cũng vẫn không nói nửa lời và nhấn ga. Nửa tiếng sau họ
đã tới trước nhà Hùng.

Kumar lại gần như bay khỏi taxi. Anh rảo bước rất nhanh tới ngôi nhà có cánh cửa gỗ màu nâu khá cao và rộng. Cửa bên trái có cái đầu sư tử mồm ngậm
chiếc vòng đồng vàng óng.

Đắn đo vài giây, Kumar nhấc vòng đồng dập nhẹ vào cửa. Không có tiếng ai trả lời. Anh lại động chiếc vòng mạnh hơn. Vẫn không có một ai trả lời.
Cánh cửa nặng bằng gỗ sồi đứng im phăng phắc, lặng câm như nấm mồ? Chả nhẽ không có một ai?

Kumar nhìn ra đường phố. Dãy phố dài vắng tanh, không một bóng người. Anh tìm ai để hỏi thăm để tìm Quyên bây giờ. Quyên ở đâu?

Anh buồn bã lê bước. Đi đâu trong thành phố lạ hoắc này. Em ở đâu? Thanh Vân, con ở đâu? Trong đầu anh chỉ hai câu hỏi duy nhất mà chẳng ai có thể
trả lời giùm anh?

Chiếc điện thoại trong túi quần Kumar bỗng rung lên nhè nhẹ. Kumar lấy máy, nhìn vào màn hình. Một cái số lạ hoắc. Anh bấm nút đàm thoại.

– Kumar! Kumar phải không?

Kumar run lên. Chút nữa anh đánh rơi điện thoại. Giọng Quyên. Đúng là giọng Quyên. Không thể nhầm được!

– Quyên! Quyến đấy phải không? Em ở… ở đâu? – Giọng Kumar gần như lạc đi!

Chẳng thể ngờ được, trong giờ phút tuyệt vọng nhất, anh lại bắt liên lạc được với Quyên. Bàn tay Kumar run lên. Bao nhiêu cú phôn anh gọi mà Quyên
vẫn bặt âm vô tín. Giờ đây, giữa lúc anh vô vọng trong cuộc kiếm tìm, đột ngột Quyên lại hiện ra. Kumar áp chặt tai vào chiếc máy. Anh sợ, nếu
không làm như vậy, tiếng nói vô cùng thân yêu kia, con người anh đang tìm kiếm kia sẽ vụt biến mất.

– Em đang ở sân bay? Anh đã đọc thư của em chưa?

– Thư nào? Em đang ở sân bay nào?

– Em đã giải thích trong thư rồi. Em đang ở sân bay quốc tế Ferihegy Budapest.

– Thư nào? Trời ơi! Anh cũng đang ở Budapest

– Anh đang ở đâu?

– Anh đang ở trước cửa nhà anh Hùng. Không ai có nhà. – Giọng Kumar vô cùng gấp gáp.

– Mọi người đang ở đây. Anh Hùng mất rồi. Em và Minh đưa anh ấy về Việt Nam. Máy em hết pin đã lâu mà không biết. Em đang gọi nhờ máy của anh Minh.
Anh tới ngay sân bay đi. Em đang ở phòng chờ lên máy bay. Chỉ còn gần tiếng nữa máy bay cất cánh về Việt Nam! Anh đi đi!

Anh đi ngay. Em chờ anh nhé! Thanh Vân đâu?

– Vâng, em chờ anh. – Hình như giọng Quyên cũng run run. Tiếng máy điện thoại lạo xạo một vài tích tắc làm Kumar nín thở – Đây! Nó đang ở bên em.
Anh nói chuyện với Thanh Vân này!

Kumar áp sát tai vào chiếc máy. Anh không còn nhớ, như anh đã định, phải nói ngay với Quyên rằng, mẹ đã cho anh đi tìm mẹ con cô. Bên tai anh,
giọng quen thuộc của Thanh Vân vang lên:

– Papa! Papa!

Kumar gần như không tin ở đôi tai mình nữa. Anh chút nữa khuỵ xuống. Đường phố ngày nghỉ vắng tanh, trơ trọi mình anh. Anh lắng nghe tiếng Thanh
Vân líu ríu. Phải tới ngay sân bay! Kumar chạy ngược ra ngã tư. Tai anh vẫn áp vào điện thoại, miệng cứ thế à thế à đáp lại Thanh Vân. Thật may cho
anh, trên ngã tư xuất hiện một chiếc taxi chầm chậm tới rồi đỗ lại. Nó trả khách bên kia đường. Kumar rối rít vẫy. Chiếc xe quành sang đường. Anh
nhao vào trong xe. Anh nói như khóc:

– Papa sẽ tới ngay! – Giọng Kumar lắp bắp run rẩy.

Con đường tới sân bay Ferihegy Budapest dài gần ba chục cây. Trời tự nhiên mưa lắc rắc. Chiếc taxi chạy như cơn lốc, cuốn lên một đám bụi hơi nước
mù mịt đằng sau xe. Kumar liếc nhìn bảng chỉ tốc độ xe. Thời tiết như vậy, người ta không thể liều lĩnh chạy nhanh hơn. Kumar biết vậy, nhưng vẫn
sốt ruột vô cùng. Anh nhìn đồng hồ liên tục. Mười phút, hai mươi phút, rồi hai nhăm phút dần trôi qua. Hai, ba lần máy điện thoại rung lên. Quyên
chắc cũng sốt ruột như anh, nhắn tin vào máy hỏi liên tục, anh sắp tới chưa.

Anh sắp tới. Anh tới nơi ngay! Nhắn tin trả lời rồi mà trong anh cứ vang mãi câu nói ấy. Rồi chiếc xe cũng đậu bên lề hè, nơi hành khách vào sảnh
phòng làm thủ tục bay.

Kumar nhìn lên bảng chỉ dẫn chạy dài trên bức tường trắng. Tín hiệu chuyến bay về Việt Nam đã nhấp nháy. Có kịp không? Có kịp không? Ngay lúc ấy,
chiếc máy trong túi anh lại rung lên. Kumar móc điện thoại, mắt vẫn tìm kiếm Quyên ở cửa ra vào phòng cách li.

Không thấy Quyên ở nơi đấy, như tin nhắn trên đường tới sân bay. Anh bấm máy. Giọng Quyên nhỏ nhẹ vang lên trong tai anh. Cũng chỉ là cú điện thoại
có vài giây. Kumar lập tức nhận ra nghe giọng Quyên gấp gáp, hổn hển bên tai. Anh cũng không kịp nói một câu trả lời. Cú điện thoại vài chục giây
ấy có câu cuối làm anh run rảy. Bao nhiêu ngày rồi, anh lại nghe ba cái từ thiêng liêng, mà hiếm hoi lắm Quyên từng nói bên tai anh:

– Kumar! Em yêu anh!

– Quyên, anh yêu em… Anh sẽ bay ngay về Việt Nam! Mẹ đã… mẹ đã… – Kumar gần như hét lên vào máy.

Kumar không nói được hết câu. Sau câu trả lời ngắt quãng, nửa chừng vội vã ấy là tiếng tút tút đau đơn kéo dài, làm Kumar thẫn thờ bàng hoàng. Anh
cầm chiêc máy điện thoại, nhìn vào nó bất lực! Chỉ còn những âm thanh vô cảm lạnh lùng phát ra.

Hoá ra cô ấy đã đứng suốt cả tiếng bên ngoài đợi anh mà anh không thể tới nhanh hơn. Bây giờ thì cô ấy phải lên máy bay rồi, người ta không thể
hoãn chuyến bay như một chiếc ô tô chậm lại cuộc hành trình để chờ đợi một người như anh. Anh thật là kẻ không may. Không! Không thể như vậy. Anh
không thể quay lại nước Đức theo lời Quyên dặn! Làm sao chịu đựng được, dù chỉ thêm vài ngày nữa thiếu em và Thanh Vân. Vâng, cái xứ sở dù tươi đẹp
tới mấy, mãi mãi chẳng phải là của anh, chưa bao giờ là của anh. Nơi ấy anh chỉ có em và Thanh Vân thôi.

Kumar dù có giầu tưởng tượng tới mấy cũng không thể hình dung ra cảnh Quyên và Thanh Vân cùng Minh vội vã ra sao khi theo cô nhân viên hàng không –
với khuôn mặt chẳng dễ chịu chút nào – bước trên đường dẫn vào máy bay. Chỉ còn hơn chục phút máy bay cất cánh mà người ta vẫn thấy thiếu ba hành
khách. Tìm mãi, thấy họ vẫn đứng bên đầu cửa kiểm soát. Thế mà trước khi bước vào đường dẫn, Quyên vẫn cố nhìn lại đằng sau một lần nữa. Khổ thân
cho Quyên! Cô không hề biết rằng, chỉ hơn ba bốn chục mét ở phòng kế bên, qua hai bức tường nữa, Kumar của cô đang thẫn thờ nhìn chiếc biển thông
báo bay và lẩm bẩm như người mất hồn: “Anh sẽ về Việt Nam. Anh sẽ bay về tìm em.”

Sân bay quốc tế Ferihegy ngày hôm ấy hoạt động như trăm ngàn ngày bình thường của nó. Vẫn là cảnh những hành khách đủ các sắc tộc nháo nhào tất bật
xuôi ngược đi lại và chẳng ai để ý trên sân thượng, nơi người ta có thể đứng tiễn biệt những chuyến bay, có một người da màu nhìn mãi một chuyến
bay như muốn níu nó lại. Anh ta đứng mãi, từ lúc chiếc máy bay chầm chậm bò ra đường xuất phát, lao như cơn lốc trên đường băng, rồi vút lên không
trung, tới khi bé dần, bé dần và mất hút phía trời xa. Người da màu ấy đứng im phăng phắc như một bức tượng bằng đồng hun. Đấy chính là Kumar, bóng
anh, trên nóc nhà ga quốc tế Feriheg, hằn trên bầu trời Budapest đầy những cụm mây nhỏ trắng phớ vẫn bay lang thang vô định khắp cùng thế giới.

Người ta cũng không ai để ý trên chuyến bay đang như mũi tên bắn ngược lên không trung, có một phụ nữ châu Á, cứ để nước mắt chan hoà trên khuôn
mặt, chẳng buồn lau, quàng tay sang ôm lấy vai đứa con ngồi bên. Ai nhìn thấy những giọt nước mắt ấy, cũng tưởng cô ta buồn đau gì nên khóc. Chỉ có
một người đàn ông Việt ôm khư khư một chiếc lọ gốm ngồi bên cạnh, biết rõ lí do người đàn bà ấy khóc vì đau khổ hay hạnh phúc. Anh nhìn sang người
phụ nữ Á châu rồi mỉm cười.

Người đàn bà ấy tên là Quyên

Tháng này chị vừa đầy ba mươi ba tuổi.

Vậy là đủ chín năm phiêu bạt. Chín năm, đó là một thời gian không dài, nhưng có thể ôm đầy biết bao nhiêu sự kiện của đời những con người như
Quyên…

Hết.